Từ chữ Nôm đến quốc ngữ (7):

Ẩm Thực Nam Nữ (Eat Drink Man Woman)

 

Nguyên Nguyên

 

‘Eat Drink Man Woman’, một phim rất hay của Taiwan (Đài Loan), đã đưa nhà đạo diễn Ang Lee (Lý An) lên hàng ‘cao thủ’ quốc tế. Tên quan thoại của phim là: ‘Yin shi nan nu’ tức ‘Ẩm Thực Nam Nữ’. Ang Lee cũng là đạo diễn của cuốn phim Kung Fu ‘Crouching Tiger Hidden Dragon: Ngọa Hổ Tàng Long’ (2000), đã từng mang hãnh diện cho người Á Đông, khi phim đoạt giải Oscar cho loại ‘Phim Hay Nhất dùng ngoại ngữ (Best Foreign Language Film)’. 

Ang Lee sinh năm 1954 tại Đài Loan. Sau khi tốt nghiệp Trường Cao Đẳng Nghệ Thuật Taiwan vào năm 1975, Ang Lee sang Mỹ làm lưu học sinh, và hoàn tất chương trình học cho văn bằng BFA tại đại học Illinois Urbana-Champaign. Rồi sau đó, xong luôn bằng Thạc Sĩ (Maters degree) về sản xuất phim ảnh tại đại học New York. Chỉ mới đến phim thứ nhì ‘The wedding banquet’ tức ‘Hsi Yen’ (1993), tên tuổi Ang Lee đã được nổi vang như cồn. Phim ‘The wedding banquet’ (Tiệc cưới) quay về một đề tài hãy còn khá mới vào năm ấy: đời sống hàng ngày của một thanh niên ‘gay’ (đồng tính luyến ái) gốc Taiwan. Khi cha mẹ anh ta qua Mỹ thăm con – anh ta phải ngụy tạo một tình yêu và một lễ cưới (giả) với một thiếu nữ để cha mẹ được vui lòng.

 Phim thứ  3 của Ang Lee ‘Eat Drink Man Woman’ (1994), cũng với tài tử lão thành Taiwan: Sihung Lung, đã được ‘đề nghị’ Oscar cho loại ‘Phim Nước Ngoài Hay Nhất’. Sau đó Ang Lee được điện ảnh Hollywood tín nhiệm và giao cho đạo diễn những phim thật sự Mỹ (giữa giòng) như Sense & Sensibility (1995), với Emma Thompson, đoạt giải Oscar cho phân loại: ‘Kịch bản mô phỏng hay nhất’, và phim Ice-storm (1997) (Bão nước đá) đoạt giải ‘Kịch bản hay nhất’ tại đại hội điện ảnh Cannes. Rồi đến ‘Ngọa Hổ Tàng Long’ (2000), một thứ phim ‘không dùng tiếng Mỹ’ đã đạt mức thu nhập cao nhất từ trước đến giờ, ngoài giải Oscar kể trên, còn nhận được giải ‘Đạo diễn hay nhất’ của Golden Globe (Kim Cầu).

 Đặc biệt, phim ‘Eat Drink Man Woman’ (Ẩm thực Nam nữ) sau đó không lâu được Hollywood chiếu cố và cho cóp nguyên si thành một phim Mỹ: Tortilla Soup (2001), do Maria Ripoll đạo diễn, và Hector Elizondo (có trong phim loạt L.A. LAW) thủ vai người đầu bếp già do Sihung Lung đóng trong phim “Ẩm thực’, với sự góp mặt của nữ tài tử ‘văm’ năm xưa, Raquel Welch. “Tortilla Soup’ cũng khá hay, nhưng tất nhiên không bằng nguyên bản ‘Ẩm thực’, có lẽ nhờ ở phần âm nhạc phong phú, nhất là bản ‘Perhaps, perhaps, perhaps’, ngày trước thường được biết với tên ‘Qui sait, qui sait, qui sait’.

 ‘Ẩm thực nam nữ’ kể chuyện một người đầu bếp một cao lâu lớn, ông Chu, ở tuổi đang hay gần về hưu. Goá vợ và sống chung với ba cô con gái lớn, hãy chưa chồng. Một cô dạy ‘Hoá học’ tại một trường trung học. Cô kế làm đến bậc quản lý một hãng hàng không. Và cô út hãy còn đi học và làm việc bán thì tại một tiêm ăn mang đi. Phim lôi cuốn người xem ở những phần nấu ăn và trình bày các món ăn thật thịnh soạn. Thường trong những buổi ăn ‘cổ’ cho toàn gia đình, vào dịp cuối tuần. Khổ nỗi, ông đầu bếp họ Chu bắt đầu mất đi cảm giác nếm hoặc thưởng thức đồ ăn ngon. Tuy việc ăn uống và tiền bạc vào ra không thành vấn đề đối với mọi người trong nhà, tất cả mọi người đều thấy cuộc đời họ còn thiếu thiếu một cái gì.

 Phim Tortilla Soup của Mỹ, bắt chước y hệt phim ‘Ẩm Thực’, từng khung một. Y như phim The Assassin với Bridget Fonda, bắt chước một phim Pháp: Nikita. Hoặc vào thời xa xưa: ‘The Magnificent Seven’ (7 nếp sống ‘cao-bồi’ oai hùng) với Yul Brynner, cóp ‘The Seven Samurai’ (7 người hiệp sĩ)  của Akira Kurosawa, với Toshiro Mifune [1]. Tortilla Soup chuyển thức ăn Tàu thành thức ăn Mễ Tây Cơ. Và bối cảnh câu chuyện được dựng ở một gia đình di dân gốc Mễ, tại Los Angeles. Tuy mang tiếng phim bắt chước, Tortilla Soup cũng khá hay, và khiến khán giả muốn tìm thử nếm các món ăn Mễ quay trong phim.

 Ang Lee, tên họ của người đạo diễn tài ba gốc Đài Loan viết theo tiếng Mỹ, lúc ‘phiên âm’ sang tiếng Việt trở thành Lý An. ‘Lee’ chuyển thành ‘Lý’, và ‘Ang’ đổi thành ‘An’. Một âm mang ‘G’ ở cuối biến thành âm không ‘G’, tận cùng bằng ‘N’. Âm Quảng Đông của [An] là /On/. Quan thoại là /An/. Y như âm Việt /An/.

 Trong bài này chúng ta sẽ quan sát phân biệt phát âm các âm cuối như: /an/ và /ang/, /ác/ và /át/, /au/ với /ao/, và đặc biệt dấu hỏi (?), /ủ/, với dấu ngã  (~), /ũ/ - trong bối cảnh của việc chuyển hệ từ Nôm sang quốc ngữ.

 

Một thứ tiếng phiên âm

 

Như bài số 1 về ‘Vương Yũ’ đã trình bày, chữ quốc ngữ vào lúc mới chào đời, chỉ là một hệ thống ráp vần dùng chữ cái a-b-c, đặt ra để phiên âm tiếng ‘Nôm’ của người bản địa. Với một mục đích chính là dùng thứ tiếng phiên âm đó trong việc truyền giảng đạo Ki-Tô.

 Xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ thứ 17, và đánh dấu bằng quyển tự điển của Alexandre de Rhodes vào năm 1651, quốc ngữ được tiếp tục phát triển với sự góp sức của hàng chục giáo sĩ uyên bác, cùng với những học giả Tây phương lẫn An-Nam. Để rồi thứ tiếng mang danh ký âm thuở ban đầu đó được hình thành, với một hệ thống văn phạm và cú pháp tương đối khá hoàn bị vào đầu thế kỷ thứ 19. Quyển tự điển của Taberd xuất bản vào năm 1838, đánh dấu việc tạm gọi ‘hoàn tất’ của phát triển quốc ngữ. Như vậy, nói chung quốc ngữ đã len vào và thay thế chữ Nôm trong vòng khoảng 200 năm.

 Như đã thấy qua những bài trước, khi một thứ tiếng được dùng để phiên âm một ngôn ngữ khác, chắc chắn thế nào cũng có rất nhiều lệch lạc về âm vận. Rất nhiều từ chắc chắn sẽ bị thay đổi cách phát âm. Trong trường hợp quốc ngữ thay thế chữ Nôm, chúng ta đã thấy những điểm rất đặc biệt như sau:

 (a)   Quốc ngữ đặt ra để phiên âm chữ Nôm. Nhưng đa số người nước Nam trước đó không biết đọc và không viết được chữ Nôm. Trước khi quốc ngữ xuất hiện, thật sự nước Nam có một chế độ ngôn ngữ song hành: Hán ngữ và Nôm. Chữ Hán dùng ở triều đình, quan quyền, và khoa bảng. Người dân nói với nhau bằng tiếng Nôm.

(b)  Chữ Nôm tự động rút lui và biến mất sau khi quốc ngữ đến thay thế. Đa số ‘tuyệt đối’ những người xử dụng chữ quốc ngữ, từ người dân có học lực rất ít cho đến những nhà chuyên về nghiên cứu ngôn ngữ có văn bằng do các đại học lớn ở Tây phương cấp, đều không biết tí gì, hoặc rất ít, về chữ Nôm. Hoặc nếu biết, thông thường biết chữ Nôm qua môi trường giảng dạy và thu nhận bằng quốc ngữ. Điều này có nghĩa, trong quá trình tìm hiểu về tiếng Việt, không bao giờ tiếng Việt được nhìn dưới góc cạnh của một sự so sánh hay đối chiếu với thứ tiếng Nôm thực thụ, được dùng trước khi quốc ngữ ra đời. Mặc dù đã có khá nhiều so sánh giữa chữ Nôm với chữ Hán, theo dạng ‘Hán-quốc-ngữ’ (thí dụ: [2] & [3]).

(c)  Sự truyền bá chữ quốc ngữ trong thời buổi ban đầu, do đó mang một số điểm đặc trưng như sau:

-         Truyền bá quốc ngữ với khối dân chúng đa số mù chữ, giống như dạy trẻ thơ nói và viết. Phụ huynh dạy ra sao, trẻ thơ bắt chước y như vậy. Người Việt từ lúc ban đầu, rồi truyền tụng sang những thế hệ sau, rất thông thường không hề biết được quốc ngữ đã thay đổi âm vận tiếng Nôm ra sao.

-         Phần lớn những biến chuyển trong chuyển hệ từ chữ Nôm sang quốc ngữ, đều do cách ký âm bằng a-b-c của quốc ngữ gây ra. Và cũng do ở cách truyền dạy quốc ngữ từ các Thầy đến khối dân chúng đông đảo, trước đó mù tuồng chữ Nôm. Thầy dạy sao, học trò sẽ học y như vậy. Rồi truyền sang những thế hệ tiếp nối.

-         Bởi tiếng Nôm tự động rút lui, không kèn không trống, và lúc quốc ngữ được truyền bá mãnh liệt - tức từ khi Pháp bắt đầu đánh chiếm nước An-nam vào năm 1862 - cũng là lúc quốc ngữ đã đạt được dạng tương đối đã hoàn bị. Kèm theo bằng sự ra đời một loạt các áng thi văn chữ Nôm trình bày qua dạng quốc ngữ, như: Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm, v.v. Thêm vào đó, không bao giờ người học quốc ngữ - từ xưa đến nay - được biết từng từ Việt ngữ dưới thời chữ Nôm thật sự đã được phát âm ra sao. Do đó, đa số người Việt thường dễ bị nhầm rằng tiền nhân phát âm tiếng Nôm y như tiếng Việt ngày nay. Không một chút thắc mắc hoặc nghi vấn.

 Một khi thấy rõ những điểm đặc trưng trong việc chuyển hệ từ Nôm sang quốc ngữ, chúng ta sẽ thấy ngay, như những thay đổi được trình bày trong 6 bài trước:

 (a)   Phân biệt các âm cuối như: /an/ với /ang/, /uc/ với /ut/, /ao/ và /au/, v.v. và phân biệt dấu hỏi {?} với dấu ngã {~}, phần lớn thật sự do ở tác động của quốc ngữ.

(b)  Những phân biệt này không có, hoặc nếu có - rất khó phát hiện, trong môi trường không dùng a-b-c như tiếng Nôm, tiếng Hán, và tiếng Mường.

(c)  Bởi phân biệt đó không được rõ nét trong môi trường chữ Nôm, khi chuyển sang quốc ngữ, nó hoàn toàn tùy thuộc vào ‘sở thích’, vào ‘quan điểm’, và cũng có thể theo mệnh lệnh cấp trên, của các Thầy quốc ngữ, ở từng khu vực, trong buổi ban đầu [5].

(d)  Có một sự độc lập nào đó, giữa lối phát âm và lối truyền bá, giảng dạy quốc ngữ của các Thầy ở phía Bắc và các Thầy phía Nam. Rất dễ hiểu nếu để ý, thời đó không có điện thoại viễn liên, không có Tivi, điện thoại di động cell phone, không có email, internet, v.v. Và việc truyền bá quốc ngữ phải diễn ra trong lén lút và khẩn trương, do  ở việc cấm đạo và ruồng bố của quân lính Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong.

 

Thanh điệu

 

Sau đây chúng ta hãy khảo sát thanh điệu qua việc đối chiếu với tiếng Hán, tiếng Nôm, và tiếng Mường hoặc ngôn ngữ của người dân tộc.

 Thanh điệu (tone) là gì? Người ta nói một ngôn ngữ có thanh điệu khi có thể phân biệt các từ có cùng âm nhưng thanh điệu khác nhau. Thí dụ: [tôi] khác với [tồi], với [tối], khác với [tội]. Tức thanh điệu được biểu hiệu bằng ‘dấu’. Trong Việt ngữ: Không dấu (ngang), dấu sắc, dấu huyền, dấu nặng, dấu hỏi, và ngã (sáu thanh điệu). Những ngôn ngữ thanh điệu thường có số thanh điệu khác nhau. Tiếng Myanmar (Miến Điện) có 3 thanh điệu. Tiếng Thái có 5. Hoa ngữ kiểu Quan Thoại có tất cả 4 thanh điệu, trong khi Quảng Đông có đến 9. Tiếng Việt có 6 thanh điệu.

 Nhiều ngôn ngữ có cú pháp chịu ảnh hưởng của thanh điệu. Thí dụ, tại một hai quốc gia ở phía Tây Phi Châu, người ta dùng thanh điệu thấp để chỉ ‘thời hiện tại’, và cùng một từ nhưng thanh điệu cao để chỉ ‘thời quá khứ’ [4].

 Nhưng thật ra tiếng Nôm có thanh điệu hay không? Có. Bởi hai lý do chính. Thứ nhất, không có thanh điệu, tiếng Nôm sẽ rơi vào tình trạng luôn luôn bán khai - với rất nhiều từ mang cảnh đồng âm dị nghĩa. Thí dụ: nếu không có thanh điệu, [thui] sẽ chất chứa hết các nghĩa của [thủi] (đen thủi đen thui, lủi thủi), của [thúi] (hôi thúi), và [thụi] (đấm). Thứ hai, ngôn ngữ nước Nam từ ngàn xưa vẫn phong phú về mặt ca dao, với thể ‘lục bát’. Muốn có tục ngữ ca dao, muốn có thi văn, tất phải có luật bằng trắc và thanh điệu:

 

Dò sông dò biển dễ

Mấy ai lấy thước mà đo lòng người.

 

Trong hai vế ‘6-8’ đó, vần của [dò] ở cuối vế trên, phải hoà điệu được với [đo], từ thứ 6 ở vế dưới, theo đúng với luật bằng trắc, tức luật về thanh điệu. Thêm thí dụ khác:

 

Thương em anh cũng muốn

Sợ truông nhà Hồ, ngại phá Tam giang

Phá Tam giang ngày rày đã cạn

Truông nhà Hồ Nội tán cấm nghiêm

 

Hoặc:

Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió

Hỏi ngày về chỉ độ đào bông

Nay đào đã cuốn gió Đông

Phù dung lại nở bên sông bơ sờ

(Chinh Phụ Ngâm)

 

Ngoài ra, tiếng Việt chứa trên 60% từ gốc Hán. Tiếng Hán cũng ngay từ thời xa xưa, đã nổi tiếng như một ngôn ngữ hoàn chỉnh, mang nhiều truyền thống âm nhạc và thi văn. Do đó chắc chắn tiếng Hán là một ngôn ngữ thanh điệu ngay từ lúc bắt đầu đô hộ nước Nam Việt. Như vậy, tiếng Việt đã có thanh điệu ngay từ lúc lập quốc, hay ít nhất cũng từ thời bắt đầu lâm vào ách đô hộ của Bắc phương (thế kỷ thứ 1 trước Công Nguyên). 

 

Thế nhưng, tiếng Nôm có phân biệt dấu hỏi (?) với dấu ngã (~), và các âm cuối như /ác/ và /át/ hay không. Nói khác đi, phát âm tiếng Nôm, trên toàn cõi nước An-nam, có phân biệt rõ rệt dấu hỏi (?) và dấu ngã (~) cùng những âm cuối, như kiểu phát âm người phía Bắc (từ thời quốc ngữ đã phát triển) hay không. Có lẽ không.

Bởi những lý do, tuần tự được quan sát sau đây.

 

Chuyển từ Hán ngữ

 

Bởi tiếng Việt chứa đến hơn 60% từ gốc Hán, quan sát biến chuyển từ Hán sang quốc ngữ tạo được một khởi điểm có cơ sở, và sẽ cho thấy những mẹo luật về hỏi (?) ngã (~) không được thuần nhất lắm.

 

Dấu hỏi (?) thường thường tương ứng với thanh điệu số 3 (‘khứ thanh’) trong tiếng Hán quan thoại, trong khi dấu ngã (~) liên hệ đến thanh điệu thứ 4 (‘nhập thanh’). Thí dụ:

Đảng => dang{3}  ([đảng] viết theo pinyin quan thoại: [dang] với dấu thứ 3: /dăng/)

Đãng = đu đưa => dang{4} (với thanh điệu thứ 4: /dàng/. Dấu (~) = thanh điệu Hán thứ 4)

Đảo = island => dao{3} (thanh điệu thứ 3: /dăo/. Dấu (?)= thanh điệu thứ 3, tiếng Hán)

Tĩnh = yên tĩnh => jing{4} (thanh điệu thứ 4: /jìng/)

Võng mạc = wang{4} mo{2}  (/wàng/ thanh điệu 4 cho /võng/ {~})

 

Thế nhưng, có nhiều ‘ngoại lệ’:

Đổ = bịt, lấp, chắn => du{3} (thanh điệu 3)

Đỗ = ngăn chặn, bịt => du{4} (thanh điệu 4)

[Đổ] hay [Đỗ] mang một âm, có thể mang cùng nghĩa [6], nhưng có hai thanh điệu, tiếng

            Hán lẫn Việt.

Võng (cái võng) = wang{3} chuang{2}  (/wăng/ thanh điệu 3 cho /võng/ {~}, chứ không

            phải thanh điệu 4 như từ Hán quan thoại cho [võng mạc] phía trên)

 

Các ngoại lệ khác:

Thũng = sưng, phù => zhong{3} (thanh điệu 3. Đáng lẽ ra: thanh điệu 4 - dùng với (~))

Chủng = chủng tộc => zhong{3} (thanh điệu 3. [Zhong] một thanh điệu 3 phía Hán, nhưng hai thanh điệu, một ? (‘chủng’) một ~ (‘thũng’), trong tiếng Việt)

Nhũ = vú => ru{3} (thanh điệu 3. Tức dấu ngã (~) của /nhũ/ đã không dựa vào thanh 4)

Mãi = mua  => mai{3} (dấu (~) lại đi với thanh điệu 3)

 

Đối với luật thanh điệu tiếng Việt – thông thường liên kết với từ Việt gốc Hán:

·        {Không dấu} đi với {dấu sắc} và {dấu hỏi ?} => ‘thinh bổng’

·        (dấu ngã ~} đi với {dấu nặng .} và {dấu huyền `} => ‘thinh trầm’

 

Hải (Hán) => biển (Việt)

nhuần nhuyễn => {nhuần}, dấu huyền, đi với {nhuyễn}, dấu ngã

cỡi => kỵ ([kỵ] là dạng Hán quốc ngữ của [cỡi]) dấu nặng đi với {~}.

trễ (Việt) = muộn :=: vãn (Hán) => dấu (~) đi với {dấu nặng .}

sửa (chữa) => tu (tu bổ) => dấu {?} sánh với [tu] không dấu

 

Nhưng vẫn có đầy dẫy ngoại lệ:

 

rủ => dụ (Hán) => dấu {?} đi với {.}

miếu => miễu => dấu sắc đi đôi với {~}

nỏ (cung nỏ) => nỗ

ngẩng, ngửng => ngưỡng

tiện (máy tiện) = tiển (Hán: xi{3} ) (dấu nặng đi với {?})

kéo = tiễn (Hán: jian{3} ) (dấu sắc đi với {~})

vú = nhũ (Hán: ru{3} ) (dấu sắc Việt đi với dấu ngã Hán-quốc-ngữ)

rượu = tửu (Hán: jiu{3} ) (dấu nặng sánh với dấu hỏi)

 

Bây giờ, xin quan sát các âm cuối.

 

Trước hết để ý, có một số âm cuối, bên quan thoại pinyin mang âm /ng/ nhưng bên tiếng Việt âm /nh/:

Gang linG (qt) => cương lĩnH (V)

Cong minG => thông minH

Ju xing => cử hànH

Sheng => sinH

Cheng => thành, v.v.

 

Đa số những âm cuối khác đều thuần nhất giữa quan thoại pinyin và quốc ngữ:

Chun bei => chuẩn bị (âm cuối /n/ giống nhau giữa quan thoại và quốc ngữ)

Zhong zu => chủng tộc ([chủng] và [zhong] có âm cuối /ng/ như nhau)

Yang => dương

Hen => hận

Shen => thân

Men => môn

 

Nhưng vẫn có ngoại lệ:

Deng => đăng => sang Việt ngữ bị lột mất /g/: đèn

 

Một số âm cuối /c/ hoặc /t/ tiếng Việt, lại vắng bóng bên phía quan thoại:

Yang jí => dương cựC  (bên quan thoại /ji/ không có ‘c’ hoặc ‘k’ ở cuối)

Ji li => cực lực

Yao => dược (thuốc)

Zhu => chúc

Chou di => thù địch

Shuo => thuyết (nói) (bên quan thoại pinyin không có /t/ ở cuối)

Zu => tốt (= chốt, quân cờ)

Yue => duyệt

Da => đạt

Mie => diệt

 

Nhưng kiểm chứng với phát âm Hải Nam sẽ cho thấy âm cuối, đặc biệt /t/, của tiếng Việt mang nặng ảnh hưởng Hải Nam:

Dat (HN) => đạt (V)

Miet (hn) => Diệt (V)

 

Và âm cuối /c/ hay /ch/ tiếng Việt chịu ảnh hưởng âm cuối /k/ của tiếng Quảng Đông:

Lik (qđ) => lực

Yeuk (qđ) => dược

Tik (qđ) => địch

 

Thanh điệu những từ thuần Nôm

 

Luật ‘Không sắc hỏi & ngã nặng huyền’ thường cũng áp dụng vào những từ ‘thuần Nôm’. Không dấu, dấu sắc và dấu hỏi được xếp vào nhóm có ‘thinh bổng’. Dấu ngã, dấu nặng và dấu huyền thuộc nhóm ‘thinh trầm’. Đặc biệt qua loạt bài này chúng ta đã thấy nhiều từ, trước đến giờ vẫn thường tưởng thuần Nôm, nhưng thật ra không Nôm na chút nào. Chúng có thể xuất phát từ những phát âm địa phương của tiếng Tàu. Thí dụ: [Giàu] là một phương âm của [Nhiêu]. [Rượu] một lối phát âm của {jiu} hay [Tửu], thu gọn bớt âm /T/. [Vốn] nguyên thủy phát âm như /bốn/ hay /Bổn/, trong [tư bổn]. Do đó khi nói đến thuần Nôm, chúng ta tạm nhận như thuần Nôm, nhưng với sự dè dặt thường lệ.

 

Theo qui luật ‘hỏi và sắc, ngang (không dấu)’ – còn gọi là ‘thinh bổng’ [7], những từ cùng nghĩa, hoặc cùng gốc, sẽ có dấu này hay dấu kia, nhưng nếu thuộc vào ‘thinh bổng’ sẽ phù hợp, thuần nhất với nhau với nhau, tức ‘thinh bổng’ sẽ hoà hợp với ‘thinh bổng’:

Búa => bửa; lén => lẻn; rải => rưới;  thế => thể

lảng => lửng; nhỉ => rỉ; tỏa => tủa; khi dể => coi rẻ; tủi => mủi

cản => can; chẳng => chăng; nhủi => chui; quăng => quẳng; nghỉ => nghỉ ngơi

 

Qui luật ‘ngã - nặng - huyền’ – còn được gọi ‘thinh trầm’ [7] cũng vậy. Các từ tương đương, hoặc mang cùng nghĩa, hay láy âm, thuộc ‘thinh trầm’, đều dùng hoặc dấu này, hoặc dấu kia, nhưng thuộc ‘thinh trầm’ với nhau:

Cũng => cùng; dẫu => đã; bõ => bù; đầy => dẫy; ngỡ => ngờ

Bã => rã; bẽn-lẽn => trẽn; dõi => rõi; giễu => riễu; ũi => nhũi

chẵn => trọn; lưỡi => lợi; đậu => đỗ; nghĩ => nghĩ ngợi

 

Nhưng vẫn có rất nhiều ngọai lệ:

Gõ => khỏ; hõm => (sâu) hóm; kẻ => gã; (thuộc) làu (lòng) => lảu; ngõ => ngả;

té => ngã; lõm => lóm; mặn => mẳn; quãng => khoảng; rải => vãi; rõ => tỏ; v.v.

 

Ngay cả với những từ mang âm đôi:

Dí dỏm; giỏi giang; ăn năn; lẵng nhẵng; lổng chổng; bẽn lẽn; hể hả; nể nang; sẵn sàng

Cũng có nhiều ngoại lệ, đánh dấu theo riêng từng từ [7]:

bằng phẳng; chia rẽ; cú rũ; chồm hổm; đầy đủ; lẳng lặng; ủ rũ; kiêng cữ; riêng rẽ; dở lỡ; khe khẽ; bền bỉ; giãy nảy; ngoan ngoãn; lảng xẹt; thung lũng; trễ nải; vỏn vẹn; mình mẩy; mềm rủn = mềm nhũn; …

Một phần do ở mỗi từ có gốc gác khác nhau, một phần theo qui luật về ‘thanh điệu trầm bổng’ của mỗi một phụ âm hay nguyên âm (xem [7]).

 

Một hai từ cần được quan sát kỹ hơn.

 

·        8 triệu rưởi và 8 rưỡi

 

8 triệu rưởi, với [rưởi] mang dấu hỏi. 8 rưỡi, với [rưỡi] mang dấu ngã.

[Rưởi] mang nghĩa [half] trong tiếng Anh. Một nửa.

Đây là một thứ từ ‘đặc biệt’ Nôm na. Từ điển Lê Ngọc Trụ [7] có ghi ‘rưởi’ khi mang dấu hỏi, khi viết như ‘rưỡi’ với dấu ngã:

Rưởi (n) Phân nửa, số trên một trăm: ngàn rưởi; trăm rưởi; thiên rưởi; …

Rưỡi (n) (dùng với danh từ) nửa phần: cắc rưỡi; cân rưỡi; chục rưỡi; đồng rưỡi; ngày rưỡi; tiền rưỡi; làm bằng rưỡi.

 

Tương tự, theo từ điển Chính Tả Việt Ngữ của Nguyễn Dương Chi [10]:

rưởi (như rưỡi, thường dùng sau số đơn vị hàng trăm trở lên): trăm rưởi; ngàn rưởi; tỷ rưởi.

rưỡi (một nửa của đơn vị): một ngày rưỡi; một tháng rưỡi; một năm rưỡi; hai tháng rưỡi; một đồng rưỡi; năm giờ rưỡi; ba rưỡi; cân rưỡi; xu rưỡi; tăng lên gấp rưỡi.

 

So với tiếng Tàu, ít khi họ dùng ‘rưởi’ tùm lum hết cho các con số. Thí dụ: Một vạn rưởi (15000), tiếng quan thoại và Hải Nam gọi: Một vạn năm nghìn [8]. Chỉ có Triều Châu có thể gọi như kiểu An-Nam: Một vạn rưởi = 15000. {Rưởĩ} tiếng Triều Châu đọc /Ngậu/. Tức đối với đa số phương ngữ Tàu, chỉ dùng [bán] tức [1/2] tức [rưỡi] cho những con số dưới 100. Thí dụ: 35½ = ba mươi lăm rưỡi. Còn 150, họ thường gọi: một trăm năm chục, chứ không gọi ‘một trăm bán’, hay ‘một trăm rưởi’, như kiểu Việt. Bởi rất lộn xộn: Một trăm rửỡi (yi bai ban - nhất bách bán) có thể là 100.5 và cũng có thể, 150. Một triệu rưởi, người Hoa gọi: Một trăm năm chục vạn [12]. Họ không có từ tương đương cho ‘triệu’. Đó có thể lý do tiền nhân, thời ‘hậu quốc ngữ, hậu Nôm na’, đã sáng tác ra phân biệt {?} và {~} cho âm {rữởi}.

 

[Rưởi / Rưỡi] xuất phát từ đâu? Có lẽ từ tiếng Mã Lai: sepaRUH, phiên âm gần như s’paROOH, với âm cuối giống như /Rửỡi/. Chắc chắn tiếng Mã lai không có phân biệt dấu hỏi dấu ngã, hay thanh điệu của họ, trong phần /Rooh/ như tiếng Việt. Nhưng họ cũng có thói quen dùng /s’parooh/ tức [rửỡi] cho ‘1 triệu rưởi’ như tiếng Việt, tiếng Anh (one and a half million dollars). Chứ không loại ra ngoài những số đếm trên 100 như tiếng Hoa hiện đại. 

 

Ngoài ra tiếng Mường cũng có vẻ không phân biệt thanh điệu /rưởi/ hay /rưỡi/:

[Rửỡi] người Mường phát âm như /Rưới/ và chỉ có /rưới/ mà  thôi [9]:

Môch cân rưới nhúc ha chăng ăn hết no: Một cân rưỡi thịt chúng ta chẳng ăn hết đâu

Cải xe nả mua tiểnh pa tliễu rưới: Cái xe nó mua đến ba triệu rưỡi (theo [9] vẫn dấu {~})

 

Có thể để ý đến hai điểm:

-         người Mường dùng dấu sắc cho tất cả thứ [rưỡi] và [rưởi]: /rưới/. Tức mẹo luật trầm bổng lại bị ngoại lệ khi chuyển sang tiếng Mường. Bởi thông thường, nhà ngôn ngữ Việt hiện nay có khuynh hướng đưa mẹo luật trầm bổng/hỏi ngã của  Việt ngữ vào tiếng Mường. Thí dụ: rượu (V) => rão (M); dẻo (V) => đéo (M).

-         những tác giả tự điển Mường-Việt [9] cho một thanh điệu {~}, dấu ngã, cho hai thứ /rưỡi/, một loại dưới 100, và một trên 100.

 

Như vậy, ta thấy qua câu chuyện hỏi-ngã cho {rửỡi}, phân biệt hỏi ngã có vẻ rất ‘nhân tạo’ phát triển khá mãnh liệt sau khi quốc ngữ được hoàn chỉnh vào giữa thế kỷ 19. Phát triển bởi những nhà Nho ở buổi tân trào, học chữ Hán qua môi trường quốc ngữ. Chứ rất khó hiện diện trong môi trường chữ Nôm.

 

Xin xem tiếp ‘ngả’ và ‘ngã.

 

·        Tại ngã sáu có tất cả sáu ngả đường

 

‘Ngã sáu’ hoặc ‘Ngã ba’, [ngã] mang dấu ngã. Nhưng, ‘sáu ngả’, ‘ba ngả’, [ngả] đánh dấu hỏi. Từ điển Nguyễn Dương Chi [10] ghi:

-         Ngả (nẻo, phía, hướng): chia tay mỗi người mỗi ngả; đôi ba ngả biết chọn ngả nào; đường chia mấy ngả….

-         Ngã (nơi có nhiều nhánh rẻ đi các hướng): giữa ngã ba đường; ngã bảy; ngã ba sông; ngã tư đèn đỏ.

 

Theo tự-vị Lê Ngọc Trụ [7]:

-         Ngả (n): nẻo, phía đường đi: ngả đường; đi ngả nào; hai ngả; cầu ba ngả; …

-         Ngã (n) chỗ nhiều con đường rẽ: ngã ba; tư; bảy; Ngã Ba Hạc. (V.N.T. Đ. viết ‘ngả’; tiếng Quảng Đông “xám ngá lù” (tam a (Y) lộ) là ‘ngả ba’).

 

Câu chuyện ‘Ngã’ hay ‘Ngả’ (có thể xuất phát từ tiếng Mã Lai: ‘aRah’), như ‘rửỡi’ phía trên, sẽ cho thấy rõ, mẹo luật hỏi ngã phát triển theo dạng ‘Hán quốc ngữ’, chứ không theo quy luật thinh trầm bổng của tiếng Hoa.

 

Trước hết, tại sao ‘ngả’ chỉ ‘ngả đường’, đi theo sau số đếm, như ‘sáu ngả’, lại mang dấu hỏi. Rất lộn xộn và không thuần nhất. ‘Ngả’ dấu hỏi, bởi có lẽ ‘ngả’ liên hệ đến những từ mang thinh ‘bổng’: ngả => nẻo, ngả => hướng, ngả => lối. Nhưng cũng không được hoàn toàn như vậy. Bởi hai lý do. Thứ nhất, có một từ khác thường hoán chuyển qua lại với ‘Ngả’ nhưng mang dấu ngã {~}: NGÕ. Mặc dù, nghĩa của ‘ngõ’ hơi khác một chút: ngõ = một lối đi hơi hẹp (ngõ hẻm); lối đi ngoài đường vào nhà, v.v. Thứ hai, ‘ngả’ với phụ âm /ng/ thuộc loại phụ âm mang thinh trọc, tức thinh trầm [7], thông thường mang dấu {~}. Nhưng ‘ngả’ lại mang dấu hỏi {?}.

 

Nếu đối chiếu trực tiếp với những từ tương đương theo pinyin quan thoại, ta sẽ thấy:

Ngả = fang xiang [11] = phương hướng. {Xiang} mang thanh điệu thứ 4, thông thường ‘ngả’ sẽ mang dấu {~}. Thế nhưng chuyển sang ‘Hán quốc ngữ’ {xiang} mang dấu sắc: {Hướng} => thiên về ‘bổng’ => ‘ngả’ mang dấu hỏi. Rất lộn xộn, bởi ‘Hán quốc ngữ’ tự ý cho thanh điệu không thuần nhất với tiếng Hán kiểu quan thoại.

 

Trong khi đó, ‘Ngã’ như trong ‘ngã sáu’, mang dấu ngã {~} có vẻ cũng bị lộn xộn như ‘ngả’:

 

Theo từ điển Hán Việt [11]:

Ngã = cha{4} kou{3} = sá khẩu.

{Cha} mang thanh điệu số 4 quan thoại => dấu {~} bên phía tiếng Việt. Nhưng, khổ nỗi tiếng ‘Hán quốc ngữ’ của {Cha} là [sá], lại thuộc thinh ‘bổng’. ‘Bổng’ => dấu sắc. ‘Phân thiết’ [sá] cũng cho kết quả tương tự: [sá] = [phân] + [sơn], cả hai thuộc ‘thinh bổng’. [Khẩu] trong [sá khẩu] cũng thuộc thinh bổng. Do đó ‘ngả’ phải đánh dấu ‘hỏi’. Thêm một phiền toái, phụ âm /NG/ như phía trên, thuộc thinh ‘trọc’ thường kèm theo dấu {~}. 

 

Nếu đối chiếu với từ ‘thuần Nôm’ tiêu biểu cho ‘Ngã’, vẫn không giải quyết được gì hết:

Ngã = Chỗ (có nhiều đường rẽ) => ‘Ngã’ dấu {~} đi với ‘Chỗ’ củng dấu {~}. Nhưng:

Ngã = Nơi (có phân chia ra nhiều lối đi) => ‘Ngã’ dấu {~} lại tương phản ‘Nơi’ dấu {?}.

 

Tương tự, từ điển Mường-Việt [9] cho biết tiếng Mường chỉ dùng [ngá] với dấu sắc cho cả hai [ngã ba] và [ba ngả].

                                

Đọc tự-vị Lê Ngọc Trụ [7] ta sẽ thấy những mẹo luật hỏi ngã tùy thuộc vào:

-         tiếng Hán quốc ngữ. Tức lối ký âm tiếng Hoa bằng quốc ngữ. Những mẹo luật đó dựa vào lối đánh vần theo a-b-c của tiếng Hán. Rồi phân biệt ‘thinh’ từng từ theo cách đánh vần đó. Trong tiếng ‘Hán Việt’ xưa: Một số phụ âm sẽ cho ra thinh bổng (thí dụ /p/, /ch/, /t/, /k/, /h/), kéo theo dấu {?}. Một số khác (như /b/, /tr/, /l/, /m/, /n/, /ng/) thuộc thinh trọc tức ‘trầm’, sẽ đưa đến dấu {~}.

-         Nhưng qua loạt bài này, chúng ta thấy quốc ngữ biến đổi rất nhiều phát âm nguyên thủy của tiếng Nôm. Biến đổi đó có thể gây một âm Nôm thuộc thinh bổng, đổi sang quốc ngữ, lại thuộc thinh trầm. Điển hình nhất:

+ {Trưởng thành} xuất từ {cheng chang}, pinyin => /tr/ trong {trưởng} hoàn toàn một âm mới của ‘Hán quốc ngữ’ (xem các bài trước, đặc biệt bài 4: Châu Nhuận Phát). Tiền nhân phát âm theo Hán Nôm: /cheng chang/, đảo ngược vị trí tiếng Hoa /chang cheng/. Và ngày nay, người phía Bắc và các ca-sĩ tân nhạc vẫn giữ nguyên: /tchưởng thành/ hay /tjưởng thành/. /Trưởng/ thuộc phía ‘trọc’ (dấu ngã). Nhưng /tjưởng/ hay /tchưởng/, dựa vào âm /ch/, lại nghiêng về phía ‘bổng’ (dấu hỏi).

+ Thời chữ Nôm, đặc biệt rất khó phân biệt một số phụ âm. Thí dụ: giữa /t/ và /đ/, hay giữa /p/ và /b/. Thử phát âm /toàn/ và /đoàn/, sẽ thấy vị trí môi, họng và lưỡi gần như nhau. ‘Đặng Tiểu Bình’ mang hai lối phiên âm khác nhau, một dùng /T/ một dùng /Đ/: [Teng Hsiao Ping] theo Wade-Giles, và [Deng Xiao Ping] theo pinyin. Âm /T/ thuộc ‘thinh bổng’ trong khi /Đ/ thuộc ‘thinh trầm’. Âm /P/ cũng thuộc ‘bổng’, trong khi /B/ thuộc trầm. Âm thật sự Hán hay Nôm nằm đâu ở giữa /T/ và /Đ/. Ở giữa /P/ và /B/.

-         Chính học giả Lê Ngọc Trụ [7] cũng cho biết lộn xộn của việc này: ‘Như tiếng Việt không có âm môi thanh (‘bổng’) p, âm nầy đã trở thành âm môi trọc (trầm) b, vì vậy ta thấy những tiếng khởi đầu bằng b, thuộc trọc thinh viết dấu ngã, như bãi, mà cũng thuộc bổng thinh, viết dấu hỏi, như bổn.’  Như những bài trước đã nhấn mạnh: Trong môi trường chữ Hán-Nôm không có phân biệt giữa âm /p/ và /b/: Deng Xiao Ping => Đặng Tiểu Bình. Peking => Beijing => Bắc Kinh. Do đó đã có lộn xộn khi chuyển từ Nôm sang quốc ngữ: {bãi} dấu ngã, và {bổn} dấu hỏi. Học giả họ Lê có vẻ không để ý {bổn} mang dấu hỏi cũng do ở liên hệ đến các từ {gốc} hoặc {vốn} (khi xưa đọc /bốn/ - xem bài 1) - cả hai mang dấu sắc.

-         Thí dụ khác: {Mua} và {Bán}. Mua (V) = Mai{3} (qt) (/Mai/ thanh 3, đọc giữa /mãi/ và /mại/). Bán (V) = Mai{4} (qt) (/Mai/ thanh 4, đọc gần như /mái/). Thế nhưng, tiếng Việt cóp quan thoại hay quảng đông ở chỗ {Mua} mang âm /M/. Còn {Bán} lại mang ảnh hưởng Phúc Kiến: âm /B/. Trong tiếng Phúc Kiến - cả ‘mua’ lẫn ‘bán’ họ cóp quan thoại, nhưng đổi cả hai sang âm /B/: Mua = Boa (thanh 3), và Bán = Boa (thanh 4). Và thật ra âm Phúc Kiến và âm Hán nói chung không phân biệt âm /B/ và /M/. Xin thử phát âm /Mua/ và /Bua/ và để ý vị trí môi môi.

 

Theo thiển ý, mẹo luật hỏi-ngã không hiện diện trong thời chữ Nôm. Nếu có, nó chỉ theo thanh điệu của những từ mang gốc Hán. Và rất bàng bạc mơ hồ, bởi đa số những người xử dụng nó không biết gì đến mẹo luật tiếng Hán, và mù tuồng chữ Nôm. Những mẹo luật hỏi-ngã đó đã được phát triển trong vòng thế kỷ 19, vào khoảng từ điển của Taberd ra đời (1838), và sau khi quốc ngữ đã làm chủ tình hình ngôn ngữ nước Nam. Tức được phát triển bởi những vị như Abel des Michels, J.L. Taberd, rồi được sự đóng góp của rất nhiều nhà ‘Nho’ An-nam theo tân học, trong đó có Huình Tịnh Của [16], Petrus Ký, Trương Minh Ký [17], … Rồi tiếp theo bằng những phong trào truyền bá quốc ngữ, như Đông Kinh Nghĩa Thục. Hoặc những công trình nghiên cứu về thanh điệu, có rất nhiều trong khoảng thời gian 1912 đến 1940 [24]. Đa số những vị này thuộc thế hệ đầu tiên học chữ Hán, chữ Nôm qua mội trường của quốc ngữ. Phát triển của phân biệt hỏi-ngã đã đi theo sát biến dạng của tiếng Hoa thời chữ Nôm, sang qua dạng mới bằng Hán-quốc-ngữ, ký âm theo a-b-c. Dựa hoàn toàn trên Hán-quốc-ngữ nó có vẻ rất khoa học. Nhưng:

-         Đã dựa trên một nền tảng đang… bị rung rinh. Bởi có rất nhiều chứng cớ trong loạt bài này: Tiếng Hán tiền nhân từng phát âm đã hoàn toàn bị quốc-ngữ hoá nhất là về mặt âm vận, và các phụ âm.

-         Mẹo luật hỏi ngã dựa trên đánh vần theo kiểu a-b-c của Hán-quốc-ngữ. Nhưng Hán-quốc-ngữ lại thiếu thốn chính xác trong ký âm ở nhiều mặt. Đáng kể nhất, những âm mới do quốc ngữ đem vào: /V/, /TH/, /R/, /TR/,… (xem các bài trước).

-         Qui luật chung về thanh điệu của quốc ngữ thường dựa vào tiếng Hán-quốc-ngữ. Nhưng Hán-quốc-ngữ lại dó chính quốc ngữ tạo dựng. Một cái vòng lẩn quẩn.

-         Gần như tất cả những mẹo luật về hỏi-ngã đều có rất nhiều, nhiều ngoại lệ. Tổng số ngoại lệ có thể đến gần phân nửa số từ tuân chỉ theo các mẹo luật hỏi ngã đó (xem [7]).

 

Phần kế tiếp sẽ cho thấy, qua những dẫn chứng khác nhau, trong thời chữ Nôm phân biệt hỏi-ngã và các âm cuối rất lỏng lẻo, chứ không rõ như kiểu người phía Bắc hiện nay.

 

Hỏi-ngã, và ‘an’, ‘ang’, ‘ac’, ‘at’, …

 

Đại khái, chúng ta có thể hiểu rõ hơn vấn đề phân biệt âm cuối và hỏi-ngã trong thời Nôm (na) bằng thí dụ sau.

 

Có lần người viết than phiền với một ông bạn thân: ‘Bạn cứ viết bừa bãi, dùng bút hiệu của tôi, sẽ làm mất tiếng tôi hết.” Ông bạn đó đáp ngay: ‘Bạn có tiếng đâu mà mất’.

 

Chữ Nôm cũng vậy. Chữ Nôm đã không biết đến a-b-c, hoặc dấu hỏi dấu ngã, thì chữ Nôm, trong cách phát âm, cũng không phân biệt được rõ rệt các âm cuối hay các từ đánh dấu hỏi-ngã, theo chữ quốc ngữ, như lối phát âm của đa số người phía Bắc hiện nay.

 

Từ điểm đặc trưng nhưng rất giản đơn này - người ta sẽ dễ dàng suy đoán ra:

Cách phân biệt âm dấu hỏi {?} ngã {~},  và một loạt các âm cuối như au, ao, an, ang, ac, at,… tại hầu hết các khu vực phía Bắc chính yếu do ở tác động của quốc ngữ. Đặc biệt do ở một số Thầy hoặc ‘biệt phái’ đi truyền giáo ở phía Bắc, hoặc  do nhà cầm quyền Pháp gởi đến, hoặc các vị thuộc giới sĩ phu tiến bộ (như Đông Kinh Nghĩa Thục),  thích nhấn mạnh về các điểm cải biến này, hơn các Thầy phía Nam. Hoặc do một dụng ý nào đó, hoặc do ở thiếu thốn phương tiện liên lạc thông tin giữa các Thầy ở hai phiá Bắc và Nam. Theo thiển ý, nó chỉ được phát triển vào khoảng giữa thế kỷ 19 trở đi, tức lúc người Pháp bắt đầu đánh chiếm các tỉnh Nam Kỳ.  Cho đến lúc người Pháp ra nghị định thúc bách việc học tập chữ quốc ngữ đối với mọi tầng lớp quần chúng. Cũng cùng lúc giới sĩ phu tiến bộ khởi động chương trình truyền bá quốc ngữ, với mục đích canh tân xứ sở. Rồi tiếp theo bằng những cuộc nghiên cứu hệ thống chữ nghĩa mới của người nước Nam, do chính các nhà ‘Nho-quốc-ngữ’ thực hiện vào khoảng đầu thế kỷ 20.

 

Dẫn chứng 1:

-         Lê Quý Đôn trong quyển Vân Đài Loại Ngữ [13] gọi nước Hà Lan (Holland) là nước Hoa LanG. [Lang] có {G}, nhưng ngày nay [Lan] trong [Hà Lan] lại không có {G}. ‘Vân Đài Loại Ngữ’ viết bằng chữ Hán. {LanG} có {G} viết theo Hán tự mang nghĩa ‘ngọc quý’, chứ không phải ‘hoa lan’..

-         Từ điển Alexandre de Rhodes xuất bản vào năm 1651 cho biết, đánh vần từ [Wang] (Vương), tiếng Hán Việt, là /Uuan/. /UuaN/ thay /Wang/, nhưng không có G. Từ điển cũng cho đánh vần của Văn (như ‘Văn học’) là /Uuan/ = y hệt như /Wen/ tiếng Tàu, không phân biệt gì với /WanG/ ở trên.

-         Cũng theo trích dẫn ghi ở trên: ‘Thượng Đế’ vào thế kỉ 17 còn được đọc như /Xán Tí/. Dấu nặng của ‘Thượng’ đọc theo dấu sắc y như tiếng Tàu; và /XáN/ không có G. Âm /X/ vẫn chưa được thay thế bởi /TH/.

 

Dẫn chứng 2:

 

Mặc dù tiền nhân từ xưa vẫn nói tiếng Nôm, tức tiếng nước Nam, nhưng chữ Nôm đối với đa số người An-nam vẫn là thứ chữ viết chỉ dành riêng cho giới sĩ phu, khoa bảng. Phức tạp và lộn xộn hơn cả tiếng Hán. Nhưng chữ Nôm, đối với giới hành chánh và khoa bảng, vẫn thường trực chỉ là một ‘sinh ngữ’ thứ hai. Một thứ tiếng rất tầm thường, không hề được trân trọng, nghiên cứu. Những dấu hỏi ngã, sắc nặng huyền cũng đều không có ký âm trên chữ Nôm - một thứ chữ (nhận dạng, đọc và viết) có thể nói 90% dân số không biết đến.

 

Phân biệt hỏi ngã thường xuyên lẫn lộn với nhau. Lật quyển tự điển chữ Nôm [14] ta sẽ thấy rất rõ. Thí dụ:

-         [Ngá] = dùng giả tá (vay mượn) âm Nhạ

-         [Ngã] (ngã lòng) và [Ngả] (nằm ngả) đều giả tá âm và viết bằng [Ngã] (ngộ= tôi)

-         [Dở] =  viết theo Nôm, hàm chứa dấu hỏi – nhưng viết như: {tâm+dữ} (dấu ngã)

-         [Rủa] = {tâm+dũ} = {khẩu+lỗ} ({rủa}, dấu hỏi dựa vào {lỗ} / {dũ} dấu ngã)

-         [Rủi] = thủ+lỗi

-         [Hoẵng] = {khuyển+hoang} (hoẵng, ngã / khuyển, hỏi)

-         [Nữa] (còn nữa) = giả tá chữ nôm {Nửa} (phân Nửa).{Nữa} (~) dựa vào {Nửa} (?)

-         [Ngỏ] (ngỏ lời) = {Ngõ} (ngõ trước)= âm giả tá của {Ngọ} = {Môn (cửa)+Ngọ}

-         [Nhẽo] (nhẽo nhẹt) = mượn chữ và âm {Miểu}, dấu hỏi.

-         [Thi] = âm Hán Việt, vay và viết như  {Thí}. Không dấu, vay âm dấu sắc

-         [Rắp] = {Khẩu (miệng)+Lập} (âm sắc dựa âm dấu nặng)

-         [Trẻ] = {Tiểu + Lễ} => âm /T/ hợp với /Lễ/ => ngày xưa đọc /Tlẽ/ y như từ điển Alexandre de Rhodes. /Tlẽ/ dấu ngã, theo âm /Lễ/, nhưng ngày nay: [Trẻ], dấu hỏi.

 

Cũng có thể kiểm chứng với các từ tương đương của dân tộc ít người [9], [15]:

-         cổ (cái cổ): ko/ka (Môn), kao (M'nông), gơ (Lào), go (Thái) - dấu {?} dựa {0 dấu}

-         đỏ (màu đỏ): xo (Kháng), đợt (Laha)

-         Củ (Củ Chi, củ khoai): Ku (Mường), Krau (M'nông)

-         chín (9): Chịn (Mường)

-         xẻng: xéng (M) => tiếng Mường do các học giả Việt điển chế gần đây [9] theo sát luật ‘trầm bổng’ trong tiếng Việt. Dấu hỏi đi với dấu sắc, dấu ngã đi với ‘huyền’, v.v.

-         xuất hiện: xất hiễn (M)

-         bông bưởi: pông pưởi (M)

-         nấu cơm: nổ cơm (M)

-         cá trê: cả tliêl (M)

-         vun xới: pôn xởi (M)

-         trở gót: tlớ cóch (M)

 

Nhưng cũng có ngoại lệ [9]:

-         mằn mặn: chẳm chẳm (M)

-         ngã : ngả => ngá (M) (xem phía trên)

-         rưởi : rưỡi => rưới (M)

-         khóc thầm: nhãm tlủa (M). Diên phẫn ẻo le, nả chí mắt nhãm tlủa mà thơi: Duyên phận éo le, nó chỉ biết khóc thầm một mình thôi [9]. Để ý: /Diên/ (M) => Duyên (V) giống kiểu phát âm Nam Bộ.

-         kháo nhau (bàn tán): nhão khể

-         gái: mãi

 

Đặc biệt tiếng Mường, do các nhà ngôn ngữ Việt Nam ký âm, có mang âm cuối /l/, thường thường thay cho /i/ tiếng Việt:

-         tlal mãi (M): trai gái

-         tỏl khát (M): đói khát

-         cổl tlù (M): cối trầu

-         lãl tãn: tên đạn

-         nổl dòng: nối dòng

-         pỏl tản: bói toán

 

Như tiếng Mã Lai, cũng có âm /l/ ở cuối từ, nhất là những từ vay mượn Tây phương: beskal (xe đạp), botol (chai nước), konsol (lãnh sự), mahal (thân mến), tinggal (ở lại), kecil (nhỏ).

 

Dẫn chứng 3:

 

Kiểm chứng bằng lối đánh vần chữ Nôm [14] như sau sẽ cho biết chữ Nôm không phân biệt các âm cuối, /an/ và /ang/, /ác/ và /át/, /ao/ và /au/, như kiểu quốc ngữ:

-         Lát (một lát)= âm giả tá vay mượn của lạC

-         Mắc (mắc mỏ)= mượn chữ MắT. Đặc biệt từ tương đương của [mắc] lại dùng /t/: Đắt

-         Mắt= {mục (chữ Hán của mắt) + mạt}

-         úc (úc ích)= dựa vào âm và viết như  [Úc]

-         út (nhỏ nhất)= một lối viết mượn của [Úc]

-         ngát (thơm ngát)= giả tá của [ngạc]  (T dựa vào C)

-         mànG (Năm canh mắt ngọc mơ màng - Kiều)= Khẩu+ MạN ([mạn] không ‘G’)

-         Man (man mác)= âm vay [ManG]  = {Tâm+ManG} (/Man/, không G, dựa /ManG/)

-         QuẩN (tính quẩn tính quanh)= {Mục+QuanG}

-         Chàng= {Nhân+TrànG}, trong khi: Chán= {Nhật+TránG}

-         Buông (buông tha)= giả tá vay mượn /BôN/ = {Thủ+BôN} = {Khẩu+BôN}

-         Rậc (chạy rậc rậc)= {khẩu (miệng)+ LậT}  (rậc, cuối C dựa âm LậT, cuối bằng T)

-         Cao (cao thấp)= mượn và viết theo âm hán-việt /Cao/

-         Cau (trầu cau)= Mượn chữ [Cao] = cũng viết như: {Mộc (cây)+Cao}

-         Sao (ngôi sao)= vay mượn /Lao/ (lao động)

-         Sau (sau này)= cũng vay âm /Lao/

-         Lao (lao vào)= mượn chữ Hán: /Lao/ (lao động)

-         Lau (lau mặt)= {thủ (tay)+LaO}

-         Trao (trao cho)= {thủ (tay)+ Lao}

-         Trau (trau dồi)= mượn âm và chữ viết từ /Trâu/ = mượn nguyên /TraO/

 

Đặc biệt, để ý [báu] như trong [ngọc ngà châu báu]. [Báu] có biến âm [bửu] (xem bài 3), và cũng thường được viết [bảo], với âm /o/ ở cuối. Tra từ điển chữ Hoa, [báu], [bửu] và [bảo] đều có cùng chung một dạng tự trong tiếng Hán [18]. Nhưng lại dùng âm cuối /u/ và /o/ khác nhau. Đối với phân biệt âm cuối /t/ và /c/, để ý: [Mắc] => [đắt] => tiếng Mường [mắt]. Và [được] cũng có thể nói tương đương với [đạt]. Âm cuối /t/ và /c/ lẫn lộn với nhau.

 

Kiểm chứng với ngôn ngữ người dân tộc [19], [9]:

-         đất (đất đai): đây (Khasi), tâ (Mường), têh (Sakai)

-         ác (chim quạ): aK (Mường), aq (Danaw)

-         ong (con ong): ma-ôn (Danaw), on (Palaung), ong (Wa)

-         mắc (Việt) = đắt (Việt) : mắt (Mường)

-         ruột : roch (M)

-         một : môch (M)

-         nhọn : nhõnh (M)

-         nhọc nhằn : nhọc nhằng (M)

-         bánh ngọt : pẻnh ngoch

 

Kiểm chứng lối đánh vần chữ Nôm và ngôn ngữ người dân tộc, đã cho thấy giống như phân biệt âm hỏi-ngã, phân biệt các âm cuối kiểu an-ang, ác-át, ao-au thật sự chỉ xuất hiện với chữ quốc ngữ. Vào thời chữ Nôm, những phân biệt này rất khó xảy ra, hoặc nếu có không được rõ rệt, bởi tiếng Nôm hoàn toàn không có ký âm theo lối a-b-c.

 

Dẫn chứng 4:

 

Xin thử tìm hiểu các âm cuối từ trong tiếng Tàu, một ngôn ngữ vẫn không cần đến a-b-c. Trước hết xin để ý, cho cùng một thứ âm cuối, nhưng nếu dùng một thứ nguyên âm nào đó, những người có thói quen không phân biệt âm cuối, vẫn phân biệt được như thường. Thí dụ:

-         an (bình an) so với ‘lang thang’. ‘Liên hoan’ so với ‘hoang đường’. Người không phân biệt âm cuối /an/ & /ang/ sẽ không phân biệt âm cuối ‘hoa lan’ với âm ‘lang thang’. Nhưng cũng đối với những người đó, ta thấy họ sẽ phân biệt được âm cuối /n/ hay /ng/ khi thay đổi nguyên âm đi trước:

-         ‘cái lon’ và ‘cong cong’; hoặc ‘tròn’ và ‘tròng’. Và họ cũng phân biệt được:

-         ôn bài’ và ‘đưa bài cho ông học ôn cho’. /Ôn/ và /Ông/.

 

Tiếng Tàu cũng y như vậy. Có đàm thoại hay nghe một người Hoa phát âm những từ sau đây chúng ta sẽ thấy họ không phân biệt các âm cuối đó bởi tiếng Tàu không có dùng a-b-c và gần như không có người Tàu nào đi học tiếng Tàu sau khi học ráp vần a-b-c, và học phiên âm pinyin trước. Hoặc nếu có, khi xử dụng tiếng Tàu, phản xạ của họ khi nghĩ đến lối viết từng từ không qua môi trường trung gian a-b-c của pinyin.

 

Ta sẽ thấy người Tàu chỉ phân biệt một cách đại khái, theo kiểu người Việt phía Nam phân biệt âm cuối quốc ngữ, một số lớn các từ như sau:

 

-         /wen/ trong /wen hua/ (văn hoá) với /weng/ chỉ ‘ông’ theo phát âm quan thoại.

-         /wan/ (vãn) và /wang/ (võng)

-         /an/ và /ang/. Bằng chứng: /An/ là phiên âm một tiếng nguyên tự Hoa ngữ. Nhưng khi viết sang tiếng Anh, họ đã viết /Ang/ như tên đạo diễn ‘Ang Lee’ (Lý An). Họ không quan tâm đến khác biệt giữa âm /an/ và /ang/ bên phía tiếng Anh-Mỹ, bởi trong phát âm tiếng Hoa không có sự phân biệt đó.

 

Nhưng cũng giống như tiếng Việt, tùy theo loại nguyên âm đi trước, người Hoa tuy thường không phân biệt âm cuối, vẫn cho thấy họ có thể phân biệt như thường:

 

-         Tiếng Việt: nhiều người không phân biệt rõ /an/ và /ang/ - nhưng phân biệt được /on/ và /ong/ hay /ôn/ và /ông/.

-         Tiếng Hoa: không phân biệt rõ /wen/ và /weng/, hay /man/ (man rợ) và /mang/ (bận rộn) - nhưng phân biệt được /Qin/ (nhà Tần) và /qing/ (thanh niên), /xin/ (tân) và /xing/ (hưng).

 

Tức trong môi trường Nôm xưa, có và không có phân biệt các âm cuối. Người dân tộc và người phía Nam phân biệt ra sao thì người An-nam cả nước đã từng phân biệt một cách chọn lọc và không rõ rệt như vậy, trong suốt thời chữ Nôm.

 

Dẫn chứng 5:

 

Sau đây xin thử quan sát các quy tắc hỏi-ngã phát triển bởi nhiều học giả Việt Nam, từ cuối thế kỷ 19. Trước hết để ý đối với các học giả này, tiếng Hán có 4 thanh điệu: Bình, thượng, khứ, nhập [7]. Tức họ đã chọn thanh điệu của tiếng Quan thoại làm chuẩn chứ không phải các phương âm ‘lô-cal’ khác như quảng đông, phúc kiến, v.v.

 

Xin nhắc lại, tiếng Hán Việt, được gọi ‘Hán quốc ngữ’ trong loạt bài này, chính thật là phiên âm của phiên âm. Phiên âm bằng một bộ chữ mới (quốc ngữ) dựa trên a-b-c, của một chuyển âm, đa số tổng hợp, từ các thứ tiếng Hán từ bên Tàu. Thí dụ: [Chuẩn bị] phiên âm từ một lối đọc Nôm. Lối đọc Nôm này lại chuyển âm, chút chút, từ /Chun bei/ của quan thoại. [Lực] phiên âm từ một phát âm Hán-Nôm, và phát âm Hán-Nôm này nhại một âm quảng đông: /Lik/. Tức luôn luôn ‘Hán-Việt’ mang tính chất ‘tam sao thất bổn’. Và sự phân định các thanh điệu đã dựa vào thứ ‘Hán-Việt’ đó.

 

Lê Ngọc Trụ [7] sơ lược về mẹo luật hỏi ngã đối với các từ ‘Hán-Việt’ ngày nay. Trước hết, các nguyên âm đều mang ‘thinh bổng’ (0, sắc, ?). Các ‘hữu âm’ như /m/, /n/, /ng/, /nh/ và /l/ đều mang ‘thinh trầm’ (~, nặng, huyền). Thêm vào đó, ‘dấu’ của một từ Hán Việt sẽ tuỳ thuộc vào ‘thinh’ của từ nằm bên trái. Thí dụ:

 

kỷ (mấy) = cư + lỹ  (từ điển Khang Hi) => thinh bổng tùy vào thinh của [cư]

kỹ (khéo) = cự + ỷ  => thinh trầm theo [cự]

 

đổ (đánh bạc) = đổng + ngũ => dấu hỏi theo [đổng]

Đỗ (họ Đỗ) = động + ngũ => thinh trầm theo [động]

 

Từ [7], có thể để ý hai điểm:

·        Thứ 1: Học giả họ Lê nhìn nhận không có một quyển từ điển Trung Hoa nào ‘chỉ tiếng đương sự ở loại thinh nào’. Tức các lối đánh dấu đều do học giả Việt phát triển theo sự hiểu biết của họ về âm … Hán-Việt. Chứ chưa chắc đã theo văn phạm của Tàu.

·        Thứ 2: Đánh dấu tiếng Việt khác với dấu tiếng Hoa. Bằng chứng xem bảng đối chiếu với tiếng Mường ở phía trên, cũng có thể thấy thanh dấu tiếng Mường lại khác tiếng Việt. Trích dẫn trong [7] về cho dấu cho từ ‘khứ’:

Khứ = khưu + cứ => [Khưu] quy định [khứ] sẽ có thinh bổng. Nhưng dấu sắc hay hỏi tùy vào vận của từ thứ nhì, ‘cứ’.

‘… Thay vào chữ ‘cư’ hay ‘cừ’ (bình thinh) thì chữ đương-sự phải đọc là ‘khư’; thay vào bằng chữ ‘cử’ hay ‘cữ’ (nếu có chữ ‘cữ’, thượng thinh) thì chữ đương-sự phải đọc là ‘khử’, chớ không còn là ‘khứ’ được nữa’ (Trúc Khê, báo Nước Nam, số 107, 1941).

Như vậy rất rõ, thanh điệu (lối đánh dấu) các từ Hán Việt được phát triển một cách ‘nhân tạo’ - dựa vào sự hiểu biết rất uyên bác của các học giả Việt, đối với tiếng Hán Việt. Nhưng khổ nỗi các học giả Việt đã quên mất tiếng Hán Việt chỉ là một thứ phiên âm - bằng quốc ngữ dựa trên a-b-c - của chuyển âm, chứa đựng rất nhiều sai lệch với âm Hán nguyên thủy. Dựa vào trích dẫn trên, người ta cũng có thể thấy lối đánh dấu hoặc dàn xếp thanh điệu trên rất nhiều từ, ở thời buổi ban đầu, không phải dựa trên phát âm người bản địa nhưng lại dựa vào những mẹo luật rút tỉa từ lối ‘tầm nguyên’ các từ gốc Hán, viết ra và đọc dưới dạng Hán-quốc-ngữ.

 

Thí dụ về ‘Tửu’, ‘Nhũ’ và ‘Nga’, sau đây sẽ làm sáng tỏ vấn đề.

[Tửu] => rượu (V); rão (M).

[Nhũ] => vú (xưa đọc /bú/).

[Nga] => ngỗng, ngang

 

[Tửu]: các Thầy đã ký âm từ /Tjiu/ của phương âm Phúc Kiến. Theo lối ‘phiên thiết’ ghi ở phía trên: [Tửu] = {Thủy + Tù}. /Thủy/ đưa thinh ‘dấu hỏi’ cho [Tửu]. /Tù/ đưa âm vận /T/ cho [Tửu]. Nhưng các Thầy quên đa số các phương âm khác tiếng Tàu cho ‘rượu’ lại bắt đầu bằng âm /J/. Điển hình: /Jiu/ của quan thoại – mang thanh thứ 3, ‘khứ thinh’, tương đương dấu ‘hỏi’, tức thinh bổng của tiếng Việt . Và chính /Jiu/ đã sản xuất ra /Jượu/ hay /Rượu/ mà các học giả vẫn lầm … thuần Nôm. Nhưng /Rượu/ hay /Rão/ tiếng Mường lại thuộc thinh trầm. ‘Tửu’ thuộc thinh bổng. Tức [rượu] trong lúc ký âm đầu tiên đáng lẽ phải được ký âm như /rướu/ mới thuần nhất với [tửu]. Một khi ta đã quen với [rướu] hay [rưởu] rồi, ký âm cho tiếng Mường phải là [rảo] chứ không phải [rão], dấu ngã. Như vậy [tửu] và [rượu] đều phiên âm Hán ngữ theo hai thứ phương âm khác nhau. Nhưng vì thiếu kiểm chứng, và lầm [rượu] một từ thuần Nôm, các bậc học giả thuở ban đầu đã trao cho mỗi từ một thứ thinh tương phản với nhau. Một cảnh tréo cẳng ngỗng, cho biết các mẹo luật hỏi ngã của các học giả xa xưa đã bị rung rinh ngay từ đáy ly rượu. [21].

 

[Nhũ]: tiếng quan thoại là /ru/ với thanh thứ 3. Tiếng quảng đông thời đầu thế kỷ 20 [20] ghi phát âm như /nyan/ và cho nghĩa: [bú], như một động từ. Hiện nay tiếng Quảng Đông cải biến và  phát âm như: /Yu/, mang thanh tương đương với thanh số 3 của quan thoại. [Vú] theo đánh vần chữ Nôm: [Vú] = {Nhũ + Bố} - dựa âm trên /Bố/, tức thời Nôm phát âm /Bú/ hay /Byú/. Âm tiếng Mường: [Pủ]. Tiếng Palaung, Riang: [Bu]. Tức bên phía Nôm na, [Vú] có thinh bổng. Bên phía Hán, [Nhũ] viết với hai bộ phận, với bộ phận định đoạt thinh nằm bên trái: /Fú/ với thinh 2 (thượng). Thông thường thinh 2 tương đương dấu huyền tiếng Việt: /Phù/. Thêm vào đó, [Nhũ] bắt đầu bằng /N/ thuộc thinh trầm, nên [Nhũ] phải mang dấu ngã. Nhưng, tiền nhân lại quên rằng [Vú] có âm cũ thời Nôm là /Byú/ hay /Bú/, thinh bổng. Và /Byú/ lại xuất phát từ /Nhũ/ cũng y như [Tửu] tiếng Hán thật đã sinh ra [rượu]. Tức [Bú] và [Nhũ] (thật ra /Nyu/ => /Yu/ => /Byu/ => /Bu/ => /Vú/) chỉ là hai mặt của một đồng tiền. Hoặc tuy hai, nhưng chỉ cùng 1 bộ phận.  Một thứ từ Hán cùng gốc. [Nhũ] và [Vú] chỉ là hai cách phiên âm khác nhau của một từ Hán: /Yu/ theo lối phát âm quảng đông. Nhưng [Nhũ] được mang tiếng ‘Hán Việt’, và [Vú] hiểu sai lầm là thuần Nôm. Một mang thinh trầm, một mang thinh bổng. Mẹo luật hỏi ngã của tiền nhân đã mang nặng mâu thuẫn, ngay từ giọt sữa ban đầu [21].

 

[Nga]: tiếng quan thoại /é/ có thanh thứ 2, thường tương đương dấu huyền tiếng Việt. [Nga] mang nghĩa ‘con ngỗng’ (dấu ngã). Đây cũng một ngoại lệ kỳ dị của quy tắc hỏi ngã do các nhà Nho ‘Tây’ và Việt phát triển vào cuối thế kỷ 19. Tương đương với /é/ trong quan thoại, đáng lẽ /Nga/ phải mang dấu huyền: [Ngà], hay dấu ngã: [Ngã]. Nhưng [Ngà] đã được dùng để chỉ [ngà voi] cũng xuất phát từ /ya/ y như /Nha/ dùng cho [răng]. Và [Ngã] dùng để chỉ [tôi], xuất phát từ [wa]. Quảng đông gọi /Ngộ/, thinh trầm nên dấu ngã: [Ngã]. [Nga] chỉ [ngỗng] thật kỳ. [Nga] thinh bổng phía Hán, lại tương đương với [ngỗng] thinh trầm, phía quốc ngữ. Và [Nga] thật ra không phải âm từ Hán phía bắc (quan thoại) mà lại một âm thuần quảng đông: /Ngoh/, âm ngang. Hiện tượng tréo cẳng ngỗng: Âm [Nga] ‘Hán Việt’ theo thinh bổng của quảng đông [NgOh]. Nhưng âm mệnh danh ‘Nôm’ [ngỗng] lại theo thinh trầm của quan thoại [22]. Hiện tượng [Nga] rất kỳ dị nếu chiết tự: [Nga] = {Ngã + điểu} (tôi + chim). Bởi nếu theo luật hỏi ngã ghi phía trên, thinh của [Nga] phải phản ánh từ bên trái tức [Ngã], thinh trầm. [Nga] phải mang dấu ngã, huyền hay nặng. Nhưng không. [Ngỗng] một từ mang danh nôm na, lại phải chịu thinh trầm, với dấu ngã.

 

*

 

Qua những dẫn chứng phía trên, chúng ta thấy những thiếu thốn phân biệt về hỏi ngã; và phân biệt chọn lọc hoặc thiếu rõ rệt các âm cuối an-ang, ac-at, ao-au, thật sự đã hiện diện ngay tại miền đất nguyên thủy của nước Nam, tức ở Bắc Bộ ngày nay - trước khi chữ quốc ngữ tràn ngập vào khoảng cuối thế kỷ 19, sang thế kỷ 20. Nói cách khác, đa số phát âm của người phía Nam ngày nay đã từng là lối phát âm của Bắc Hà, và của đàng Trong lẫn đàng Ngoài - trước thế kỷ 18.

 

Như vậy, có thể nào biến đổi về phát âm có thể xảy ra trong vòng vài chục năm hay không? Nói cách khác, việc người phía Bắc phân biệt rõ rệt âm dấu hỏi {?} và ngã {~} cùng các âm cuối có cách nào xảy ra trong vòng nửa thế kỷ hay không? Tức từ khoảng 1880 đến 1930. Xin trả lời: CÓ.

 

Dẫn chứng biến đổi phát âm Quảng Đông sau đây sẽ hỗ trợ cho luận cứ này.

 

Từ điển tiếng Quảng Đông của Roy T. Cowles

 

Trong lúc bắt đầu viết loạt bài này, người viết thấy tốn khá nhiều thì giờ tra cứu tiếng Quảng Đông từ một quyển từ điển dày bìa cứng sẵn có. Bởi lối phiên âm của từ điển hơi lạ. Thí dụ: /Zhou/ của pinyin có thể viết theo quảng đông: /jeo/. Không biết âm /eo/ đâu mà mò. Tìm mua một quyển từ điển khác, loại bỏ túi. Tiện lợi hơn, bởi ở phần cuối có mục lục bằng Anh ngữ cho từng từ. Tác giả là Roy T. Cowles [20]. Dùng qua một thời gian, mới bắt đầu phát hiện có một số phát âm rất khác với nhiều từ điển hay sách vở hiện đại dạy đàm thoại về tiếng Quảng đông. Vào một dịp tình cờ khác, mới phát hiện được quyển sách được ấn hành lần đầu vào năm 1914. Các lần tái bản kế tiếp: 1949, 1986 và 1999. Và không có sửa chữa hay hiệu đính gì hết. Tức lối phát âm của tiếng Quảng đông trong quyển từ điển này thuộc về phát âm thời thế chiến thứ 1.

 

Quả thật hay không bằng hên.

 

Nhắc lại, trong nhiều bài trước, chúng ta có để ý đến biến chuyển từ âm /Y/ của pinyin quan thoại, sang tiếng Việt thông thường, bằng âm /D/:

 

Do Thái: you tai / doanh nghiệp: ying ye / doanh thương: ying shang / Dung dich= rong yè / du lịch: yu lì / a dua: a yú / tình dục: qíng yù / du thủ du thực: you shou yóu shí / duyên phận: yuan fen / duyệt: yué / dư âm: yu yin / dư luận: yú lùn / Dì= yí / diễn viên= yăn yuán / ẩn dật= yin yì / dưỡng dục= yang yu / dương= yang / Dạ (đêm)= ye.

 

Tuy vậy cũng có một số ngoại lệ: Thay vì âm /Y/ tiếng Hán chuyển sang âm /D/ Việt, /Y/ lại chuyển sang âm /V/:

·                Yue-Nan: Việt Nam (Ðáng lẽ Yiệt Nam / hay Byiệt Nam)

·                Wang Yu: Vương Vũ (đáng lẽ Vương Yũ hay Vương Dũ)

·                Gong Yuan: Công viên (công yiên hay công diên),

·                Huan Yu: Hoàn vũ (hoàn yũ),

·                Yuan: viên (yiên = tròn), v. v. . . .

 

Trong bài số 5, chúng ta đã thấy những ngoại lệ này tuân chỉ theo phương âm Phúc Kiến-Triều Châu, tức hậu duệ người Mân Việt thuộc khối Bách Việt xa xưa. Thí dụ:

 

Yue nan (qt) => Wat Nam (pk) => Việt Nam

Xiang Yu (qt) => Hang Wu (pk) => Hạng Vũ

 

Bây giờ qua từ điển của Roy T. Cowles [20], xuất bản lần đầu vào năm 1914, ta lại thấy tiếng Quảng Đông thời đầu thế kỷ 20, có vẻ phát âm rất giống Phúc Kiến qua những ngoại lệ kể trên:

 

·                Yue Nan (qt) => Uet–naam : An-nam [20] => Việt Nam  (chính chú thích ‘An nam’ trong từ điển cho ta thấy từ điển vẫn còn ở dạng… trinh nguyên.). Ngoài ra: [leung-uet]: hai tỉnh Quảng Đông - Quảng Tây (lưỡng việt, lưỡng quảng).

·                Wong Yu (qt) => Wong Uê => Vương Vũ (Yu : lông chim)

·                Gong yuan (qt) => Kung uen => công viên

·                Huan Yu (qt) => Wan Ue => hoàn vũ

·                Yuan (qt) => Uen => viên = tròn

 

Đặc biệt để ý âm /U/ chứ không phải /W/. Vẫn có một số từ mang âm /W/: wa= hoạ= wã (tiếng Mường)= wẽ= vẽ. Wai= vì (bởi vì)= vị (địa vị). Tức /U/, như trong các từ phía trên như /uen/, là một thứ âm nằm đâu ở giữa âm /V/ và /W/.

 

Đặc biệt hơn, [con vịt] ngày nay tiếng Quảng Đông gọi /ngạp/, phúc kiến /Aak/, ‘Hán quốc ngữ’: /Áp/. Nhưng thời 1914, tiếng Quảng Đông gọi [vịt] là /Aap/, y hệt như tiếng Hán-quốc-ngữ. Những âm quảng đông xưa, thời 1914, giống âm quốc ngữ còn có:

Uê => vú (V)

Ue’ => vũ (mưa)

Iu kauh => yêu cầu (để ý âm /y/ Việt, nhại âm /i/ của Quảng đông xưa, và Phúc Kiến: ‘Iau

Kìu’. Âm /y/ Việt có âm giống /i/ hơn là /y/ tiếng quan thoại bây giờ, như /Yang/).

 

So với âm của các từ trên ở một từ điển quảng đông thời bây giờ ta sẽ thấy biến chuyển của âm thời Roy T. Cowles (1914) sang qua âm quảng đông thời bây giờ, như sau:

 

Uet Naam => Yuet Naam  (Việt Nam)

Wong Uê => Wong Yu (Vương Vũ)

Kung uen => Kung Yun (Công viên)

Wan Ue => Wan Yu (Hoàn vũ)

Uen => Yun (viên = tròn)

Uê => Yu (vú)

Ue => Yu (mưa)

Iu kau => Yiu kauh

 

Âm /U/ của quảng đông trong vòng mấy chục năm trong thế kỷ 20, đã chuyển sang âm /Y/ theo kiểu quan thoại. Đặc biệt /iu kau/ tức /yêu cầu/ tiếng Việt đổi thành /yiu kauh/. Với âm /y/ trong /yiu/ dài hơn /i/ trong /iu/. Nhưng tiếng Việt không thay đổi phát âm /yêu/ bởi dựa vào âm /i/ của quảng đông xưa, và phúc kiến, xưa và nay.

 

Đáng để ý nhất phát âm /Việt Nam/ của Quảng đông /Uêt Naam/ vào thời 1914 giống kiểu phát âm của Phúc Kiến - Triều Châu: /Wat Nam/. Tức thiên về âm /W/ chứ không phải /Y/. Tuy thế chúng ta vẫn chưa thể kết luận tiền nhân đã phát âm ‘Việt’ như /Wiệt/ hay /Yiệt/ (xem bài số 5), bởi:

-         Người Mường ngày trước vẫn gọi ‘vua Việt’ bằng /byua Yịt/

-         Người Nhật từ xưa vẫn đọc ‘Việt Nam’ như ‘Beto-namu’, ‘Việt’ thiên về âm /B/ theo kiểu /Byiệt Nam/ của Nam Bộ và … Chăm (xem [15])

-         Người Hoa phía Bắc trước giờ vẫn gọi Việt Nam là /Yue Nan/, âm /Y/

-         Người Miến Điện ngày nay phát âm như /Vyiệt Nam/. Mặc dù tiếng Miến không có âm /V/. Tức họ thêm /V/ sau này, chứ ngày trước đọc /Yiệt Nam/.

Phát âm /Wiệt Nam/ hay /Yiệt Nam/ có thể trở thành một đề tài cho luận văn cấp Thạc Sĩ?

 

Dù sao ta thấy tiếng Quảng Đông chỉ trong vòng vài chục năm đã có thể biến đổi cách phát âm của một số từ. Nhưng các từ đó cũng lại quanh quẩn trong đề tài của bài số 1: Biến chuyển từ /U/ hay /W/ sang /Y/. Rồi quốc ngữ của tiếng Việt nhập hai âm /W/ và /By/ thành /V/. Biến đổi trong cách phát âm Quảng Đông, trong một thời gian tương đối ngắn, cũng cho thấy, ngôn ngữ rất dễ biến đổi - nhất là khi trong nước có chiến tranh. Biến chuyển đó có lẽ chính đại đa số người Quảng Đông ngày nay cũng không hề hay biết.

 

Từ đó, có thể suy ra: Phân biệt hỏi (?) ngã (~) hoặc các âm cuối có thể thực hiện tại phía Bắc trong vòng vài mươi năm thôi. Dễ hơn quảng đông, bởi quốc ngữ là một thứ tiếng mới, được dạy cho đông đảo những người trước đó trong tình cảnh mù chữ, và không biết gì về tuồng chữ Nôm hay chữ Hán thứ thiệt.

 

Có nhiều chứng cớ cho biết, y hệt như biến chuyển tiếng Quảng Đông xảy ra trong khoảng 1911-1961, biến chuyển trong lối phát âm phân biệt hỏi-ngã và các âm cuối trong tiếng Việt xảy ra trong vòng ba bốn mươi năm ở đầu thế kỷ 20.

 

Hương Giang Thái Văn Kiểm [24] cho biết ‘luật’ thanh âm của Việt ngữ đã được phát hiện bởi học giả Henri Maspéro trong bài Phonétique Historique de la Langue Annamite – Les Initiales (BEFEO) xuất bản vào năm 1912. Để ý ngay đến 3 điểm: (1) Trước 1912 trên sách vở hoàn toàn  không có qui luật chính thức về thanh điệu. (2) Đến năm 1912, đối với giới học giả Tây phương, An-Nam vẫn là tên gọi quen dùng cho nước Việt. (3) Người An-Nam vẫn thiếu thốn tinh thần khoa học: Thấy ông Tây Maspéro nói có 6 thanh điệu, ta lập tức phát triển theo chiều hướng đó. Tất nhiên có lệch lạc, bởi khi định thanh điệu cho âm các từ gốc ‘Hán’ các học giả không đối chiếu với cách phát âm của người Hán chính gốc (chỉ có 4 thanh), và cũng không cách gì biết được tiền nhân đã phát âm ra làm sao, bởi họ học cả Hán lẫn Nôm bằng quốc ngữ.

 

Điểm (3) kể trên có thể được khai triển thêm:

 

(a)   Để ý Lê Ngọc Trụ [7] ghi nhận khó khăn ngay ở năm 1959, rằng không có một quyển từ điển tiếng Hoa nào ghi ra từ nào mang ‘thanh điệu’ nào. Bởi vào lúc đó, người Tàu chỉ mới soạn pinyin (tức hệ thống phiên âm tiếng Tàu theo a-b-c, có dấu thanh điệu). Lúc đó thế giới còn dùng phiên âm Wade-Giles: ‘Peking’ hãy còn dùng cho ‘Beijing’ (Bắc Kinh) bây giờ, không có dấu chỉ thanh điệu.

(b)  Nghiên cứu về thanh điệu tiếng Việt, trước và sau phát hiện của Henri Maspéro, được nhiều nhà ‘Nho-quốc-ngữ’ say mê thực hiện ở khắp nơi. Nhưng rất tiếc, không một người nào, Tây lẫn Việt, đã nghiêm túc nghiên cứu thêm những gì Maspéro đã đề xuất, mà chỉ ngoan ngoãn tiếp tục với đường hướng Maspéro đã đề ra.  

(c)  Trích dẫn bài viết của Trúc Khê ở báo ‘Nước Nam’ số 107 (1941), ở phía trên, cho thấy các học giả uyên bác nước Nam đã có cố gắng tạo dựng nhiều quy luật về thanh điệu. Nhưng rất tiếc, như Lê Ngọc Trụ đã trình bày, gần như tất cả những học giả đó (trong đó có thể kể đến Tế Hanh và Nguyễn Đình, theo ghi chú [24]) đều quy định dấu cho rất nhiều từ dựa trên thanh điệu (lầm lẫn) của thứ tiếng Hán Việt [25], một tập-hợp nòng cốt của quốc ngữ, có đến 6 thanh điệu, chứ không phải 4 như Hoa ngữ.

(d)  Các học giả Việt đã làm việc táo bạo bằng cách cho dấu (không sắc hỏi ngã nặng huyền) một số các từ, nhất là những từ ít dùng trước đó, mà không có ‘critique’, phê phán với nhau. Mặt khác, khác với học giả Tây phương, các học giả Việt thường thiếu thốn trang bị tiếng Hán thứ thiệt do chính người Tàu phát âm, nhất là kiểu quan thoại ở Hoa Bắc. Tức chuỗi trình phát triển thanh điệu, đặc biệt dấu hỏi-ngã, đã vướng phải ba nhược điểm trầm trọng: (1) thiếu thốn tinh thần khoa-học Tây phương: thấy ông Tây Maspéro nói tiếng Việt có thể có 6 thanh điệu, lập tức chạy theo chiều hướng đó. (2) không có hoặc thiếu thốn một ‘khung đối chiếu’ quan trọng: tiếng Hán do người Hoa ở Bắc Kinh phát âm. (3) hoàn toàn không biết tiền nhân đã phát âm tiếng Nôm ra sao, bởi họ chỉ biết quốc ngữ và tiếng Hán-quốc-ngữ, đầu tiên do những ông Tây dạy lại cho người nước An-nam.   

 

Tóm tắt

 

Qua bài này chúng ta đã thấy:

(i)                Phân biệt hỏi ngã và các âm cuối được phát triển ở vào giai đoạn cuối hay áp cuối của việc hoàn tất phát triển chữ quốc ngữ.

(ii)             Qui luật đánh dấu hỏi ngã và các thanh điệu khác dựa trên quốc ngữ và Hán-quốc-ngữ, với thiếu thốn hiểu biết về tiếng Hoa phát âm bởi người Hoa tại từng địa phương, nhất là Hoa ngữ tại Bắc Kinh, tức quan thoại hay tiếng phổ thông. Tức mẹo luật về thanh điệu dựa trên căn bản lý luận của một vòng tròn. Dấu cho từ quốc ngữ dựa trên tiếng Hán-quốc-ngữ. Tiếng Hán-quốc-ngữ mới vừa được phát triển bằng ký âm tiếng Hán, lại dựa hoàn toàn trên quốc ngữ. Nói cách khác:

-         Thanh điệu cho hệ thống {A} (quốc ngữ) được dựa trên cấu trúc thanh điệu của nhóm {B} (Hán Việt, hay Hán-quốc-ngữ)

-         Nhưng nhóm {B} (Hán Việt) được hình thành từ hệ thống {A} (quốc ngữ).

(iii)           Qui luật hỏi-ngã thiếu tính nhất quán, và chất chứa rất nhiều ngoại lệ.

(iv)            Phân biệt hỏi ngã hoàn toàn mang tính ‘truyền khẩu’, tính ‘thói quen’ chứ không phải theo qui tắc hay mẹo luật, nhất là đối với người Việt phát âm phân biệt theo tự nhiên. Phân biệt đó bắt nguồn ngay từ những lớp học quốc ngữ trong thời buổi  ban đầu [23]. Đặc biệt ‘thời buổi ban đầu’ của ‘truyền bá quốc ngữ’ vẫn diễn tiến cho đến khoảng cuối thập niên 1940.

(v)               Phân biệt hỏi ngã và các âm cuối rất khó hiện diện một cách rõ rệt trong thời buổi chữ Nôm. Bởi chữ Nôm không biết gì đến dấu hỏi dấu ngã hay các âm cuối dựa theo a-b-c.

(vi)            Phân biệt âm cuối thật ra vẫn có trong thời chữ Nôm, nhưng hơi chọn lọc và tùy theo nguyên âm. Thí dụ: Nôm không phân biệt rõ /an/ và /ang/, /đao/ và /đau/, nhưng có phân biệt /ôn/ và /ông/, /con/ và /cong/, /tròn/ và /tròng/.

(vii)          Phân biệt hỏi-ngã và các âm cuối theo kiểu người phía Nam, mặc dù hơi lỏng lẻo và có tính chọn lọc, mới thật sự là lối phân biệt ở môi trường chữ Nôm xưa cũ.

(viii)       Nhưng tiếng Nôm hay cách phát âm của người An-Nam thời xưa, luôn luôn vẫn là một thứ tiếng có thanh điệu.

 

Nguyên Nguyên

 

 

Ghi Chú

 

[1] Ấn tượng về phim ‘7 nếp sống oai hùng’, với Yul Brynner và một lô các tài tử về sau đều nổi tiếng như: Charles Bronson, Steve McQueen, James Coburn, Robert Vaughn, Horst Buchholtz, Eli Wallach, v.v. qua một bài so sánh phim này với ‘7 ngài samurai’ của Phạm Duy đăng trong báo Kịch Ảnh của Quốc Phong ngày xưa, vẫn còn nằm trong ký ức của người viết. Một đài truyền hình địa phương mới chiếu lại phim ‘The Magnificent Seven’ vào tuần rồi trong lúc bắt đầu viết bài này.

[2] Đào Duy Anh (1973) Chữ Nôm, Nguồn gốc, Cấu tạo và Diễn biến. Nxb Đông Nam Á.

[3] Lê Nguyễn Lưu (2002) Từ chữ Hán đến chữ Nôm. Nxb Thuận Hoá.

[4] David Crystal (1987) The Cambridge Encyclopedia of Language. Cambridge University Press.

[5] Có ít lắm một, hai khu vực lớn cấp tỉnh ở phía Bắc đã không phân biệt hỏi-ngã và các âm cuối rõ rệt, như phát âm Hà-nội. Trong mấy mươi năm gần đây Hà nội thu nhận rất nhiều cư dân từ những khu vực này và phát âm đã bắt đầu biến đổi. Nhiều du khách gốc Việt khi tham quan Hà nội đã bắt đầu nhận thấy có hiện tượng phát âm không phân biệt các âm đầu hoặc âm cuối ngay tại Hà-nội. Thí dụ, xem www.talawas.org/hanoi/hanoi31.html

[6] Khổng Đức & Long Cương (1996) Từ điển Hoa-Việt thông dụng. Nxb Văn Hoá Thông Tin

[7] Lê-Ngọc-Trụ (1959) Việt Ngữ Chánh-tả Tự-Vị. Nxb Thanh-Tân

[8] Lại chuyện lộn xộn giữa âm /W/ và /B/ trong tiếng Tàu. [Vạn] quan thoại đọc /Wan/. Quảng Đông đọc /Man/ (=> muôn), nhưng Hải Nam phát âm /Ban/, với âm /B/. {Bán ½] Hải Nam và Triều Châu đọc như /Boa/.

[9] Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Bùi Chỉ,  Hoàng Văn Hành (2002) Từ điển Mường Việt. Nxb Văn Hoá Dân tộc - Hànội.

[10] Nguyễn Dương Chi (2001) Từ điển Chính Tả Tiếng Việt. Nxb Đại học Quốc gia TP HCM.

[11] Huỳnh Diệu Vinh (1998) Từ Điển Việt Hán. Nxb Đồng Nai

[12] Đặc biệt: người Hoa Bắc đọc /Wan/ cho ‘vạn’ (10000). Nhưng Hải Nam lại dùng âm /B/: /Bán/ => Lộn xộn giữa /W/ và /B/ trong tiếng Hoa. Phân nửa (bán), người Hải Nam gọi /Boa/. Cũng để ý: tiếng nước Nam trước khi người Pháp đến chắc chưa biết đến ‘triệu’. Nhưng chỉ một thời gian trên dưới năm mươi năm, người An-nam bỏ bớt thói quen dùng hệ thống số đếm với /vạn/, và chuyển sang /triệu/. Nếu không có ‘triệu’ thì ‘triệu phú’ gọi ra sao? ‘Trăm vạn phú’ (100,0000) = Bách vạn phú ông = bai wan fu weng (qt) = baak màn fú yông (qđ)!

[13] Lê Quý Đôn (1773) Vân Đài Loại Ngữ (trọn bộ 3 quyển). Bản dịch Tạ Quang Phát. Nxb Văn Hoá Thông Tin.

[14] Vũ văn Kính (2002) Đại từ điển chữ Nôm. Nxb Văn nghệ Thành phố.

[15] Bình Nguyên Lộc (1971) Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Nxb Xuân Thu.

[16] Paulus Huình Tịnh Của, tác giả quyển từ điển đồ sộ: Đại Nam quấc âm tự vị.

[17] Thế Tải Trương Minh Ký, một trong những đồ đệ nổi tiếng của Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký. Cộng tác trong Gia Định Báo và các tờ báo quốc ngữ tiên phong.

[18] Tiếng Nôm cũng không phân biệt rõ rệt dấu nón (dấu ô)  ^ : Bằng chứng ‘toán cộng’ còn được viết và đọc như ‘toán cọng’ ở phía Nam. Âm Quan Thoại /Gong/ (công lao) nằm ở giữa /Công/ và /Cong/. Thêm vào đó, khi thì "cái nầy" khi "cái này". Khi Bẩy (7), lúc Bảy. Dấu ô (^) cũng không phân biệt trong ‘Chổng’. Theo tự điển Vũ Văn Kính [14]:

- Chổng= Chỏng= Mượn âm Hán và viết như  CHỦNG (chủng tộc). Thế nhưng

- Chõng (lều chõng)= dấu ngã -nhưng cũng mượn từ ‘Chủng’ (dấu hỏi) như ‘Chổng’.

[19] ‘Tiếng Việt và Ngôn Ngữ Dân Tộc phía Nam’ (1992). (Nhiều tác giả). Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội - Hànội.

[20] Roy T. Cowles (1999) A Pocket dictionary of Cantonese. Hong Kong University Press.

[21] Rất nhiều điểm phức tạp nhưng khá ngộ về [Nhũ] = [Vú]. Quảng Đông thời xa xưa, phát âm: /Uê/ tức gần gần với /Vú/. Bây giờ người Quảng Đông đọc /Yu/. Quan thoại đọc /ru/ thanh 3 => chuyển sang âm Việt thường dấu hỏi: /Nhủ/. Nhưng theo mẹo luật ‘bổng trầm’, phải dùng dấu ngã: /Nhũ/. Từ điển Quảng Đông [20] ghi hai nghĩa: vú & sữa. Tiếng Triều Châu cũng vậy họ có hai từ chỉ ‘vú’: /zu/ có cách viết y như /Nhũ/ & /nệ/ có cách viết y như ‘sữa’, và /nệ/ cũng mang hai nghĩa: vú & sữa. Tiếng Hải Nam cũng vậy: /niện/ dùng để chỉ: sữa và vú. Để ý cách viết và phát âm Triều Châu lẫn Hải Nam giống như từ quan thoại hay quảng đông dùng chỉ ‘sữa’: /nại/ => cà fé nại: cà phê sữa.

[22] Đây lại một điểm khá bí hiểm về gốc gác từng từ. [Nga] và [ngỗng] xuất phát từ tiếng Quảng Đông [ngoh]. Để ý âm /NG/. Trong khi đó quan thoại dùng một nguyên âm: /É/. Để ý nước Tây Âu hay Âu Việt, gồm Quảng Đông và Quảng Tây ở thời cổ đại, người Việt đọc theo quan thoại hay Hoa Bắc là /ÂU/ bắt đầu bằng nguyên âm. Nhưng chính người ‘Âu Việt’ gọi /âu/ bằng /NGU/ bắt đầu bằng /NG/ y như /Nga/. Theo nhiều tài liệu (thí dụ [15]) người Mường xuất xứ từ nước Ba Thục xưa thuộc Tây Âu. Họ không phát âm /âu/ như người Việt nhưng gọi đó bằng /NGU/ y như người Tây Âu chính cống. Và bà Âu Cơ, người đã dẫn 50 người con lên núi, họ gọi bà ‘Ngu Kơ’.

[23] Muốn kiểm chứng phân biệt hỏi-ngã có phải do thu-nhận quốc ngữ từ lúc trẻ thơ hay không, người ta có thể thực hiện một cuộc xơ-vây bỏ túi ngay ở bên bờ Hồ Tây, hay tại các cửa hàng ăn như chả cá Lã Vọng chẳng hạn: Hỏi chừng 30 người khác nhau, bất kỳ, không phân biệt tuổi tác và trình độ học vấn. Hỏi – có phải phát âm phân biệt rõ thanh điệu hỏi ngã là do ở hiểu biết qui luật đánh dấu hỏi ngã hay ở bẩm sinh. Bảo đảm đa số sẽ đáp ‘do ở bẩm sinh’. Có một số người sẽ hỏi trở lại: ‘qui luật đánh dấu hỏi ngã’ là cái gì.

[24] Hương Giang Thái Văn Kiểm (1997) Việt-Nam Gấm Hoa. Nxb Làng Văn of Canada Inc.

[25] Xin viện dẫn thêm sai lầm trên tiếng ‘Hán Việt’. Lê Ngọc Trụ biết rõ tiếng Hán có 4 thanh điệu. Nhưng ông viết, đại khái ‘không biết mò ở đâu, bởi không có từ điển Hoa nào ghi ra thanh điệu hết’. Và học giả họ Lê lại trích dẫn các công trình nghiên cứu khác hoàn toàn dựa trên ‘Hán quốc ngữ’ mang 6 thanh điệu - chứ không phải 4 như Hoa ngữ.