Bên kia cầu chữ Y

Huỳnh Ngọc Nga


Thân tặng những ai ở Chánh Hưng – Hưng Phú




Má tôi kể, hồi người quen và lập gia đình với ba tôi, má tôi không bao giờ nghĩ rằng người phải về làm dâu nhà nội tôi nơi tận vùng nửa quê, nửa tỉnh dù mang tiếng vẫn ở Saigon như vùng đất nổi bên kia cầu chữ Y, quận 8 nầy, vùng mà người Saigon hay gọi một cách vắn tắt gọn gàng là “miệt Lò Heo Chánh Hưng “ vi nơi đây có một lò thịt to lớn cung cấp thịt heo (lẫn thịt bò, ngựa) cho toàn thành phố.

Ðây là một ốc đảo giữa lòng thành phố đuợc bao bọc bởi các dòng nước của những con kinh đào và đuợc nối với đất liền thành phố bởi những cây cầu mà cây cầu lớn nhất có 3 nhánh là cầu chữ Y. Từ trung tâm Saigon đi thẳng vào Chợ Lớn đến đường Nguyễn Biểu, quẹo phía trái thẳng đến chân cầu bên đây thành phố. Lên giữa cầu có 2 nhánh rẽ, nhánh bên phải có con kinh Tàu Hủ chia đôi quận 8 (tức vùng Chánh Hưng) với quận 5, quận 6 của vùng Chợ Lớn. Con kinh nầy đổ ra sông Bến Lức. Nhánh bên trái của cầu là kinh Dôi chảy dài vô Bình An, tiếp ra huyện Bình Chánh, sau đó nhập với kinh Tàu Hủ đổ vào sông Vàm Cỏ ở cầu Bình Diền.

Chánh Hưng nằm giữa các nhánh sông trên, phía bắc có cầu chữ Y, phía nam có cầu Hiệp ân và một cây cầu nhỏ xuyên qua chợ Xóm Củi mà dân trong vùng gọi là cầu Phát Triển, chạy thẳng cầu Hiệp ân sẽ gặp cầu Nhị Thiên đường thuộc vùng Chợ Lớn. Từ dưới chân cầu chữ Y nhánh phải là đường Hưng Phú, lò Heo Chánh Hưng nằm trên đường nầy có cửa chánh nằm trên đường Lê quang Kim và một bên hông là đuờng Nguyễn Duy. Dường Hưng Phú chạy dài thẳng xuống có đường Chánh Hưng cắt ngang để gặp Bến Ba đình, từ Bến Ba đình có những con đò nhỏ sang sông để qua chợ Hòa Bình và Lao Cai. Nội tôi kể, Chánh Hưng những năm trước thập niên 30-40 là đồng ruộng, sình lầy. Khoảng thập niên 50-60 chính phủ đương thời cho xáng thổi lấy đất bùn dưới sông sâu lấp bằng các vùng sình lấy đó để xây dựng những dãy phố ngay hàng từng lô thẳng tắp, còn được gọi là dãy nhà “lô “.

Riêng tôi, tôi thực sự biết Chánh Hưng khi ba má tôi dọn nhà về ở hẳn với nội tôi, năm 1955 hay 56 tôi không nhớ rõ, và sau đó cất hẳn một ngôi nhà kế bên ngôi nhà của nội, còn được gọi là ngôi nhà từ đường, nhà hương hỏa, ngôi nhà được xây trên vùng đất nầy từ đời ông cố của tôi, cách đến nay cũng hơn trăm năm có lẽ. Nhà nằm trên đường Chánh Hưng, bên mé phải sát cạnh một con lạch nhỏ chảy ra kinh Tàu hủ, mé trái giáp nhà ông bà Ba, một láng giềng cố cựu của nội tôi. Phía trước nhà tôi, chếch về bên phải là chùa An Phú, chùa không lớn nhưng trang nghiêm và sau nầy được sửa sang lại khang trang rất đẹp, từng là nơi hành hương của cố nghệ sĩ Thanh Nga lúc còn sanh tiền cũng như nhiều nghệ sĩ cải lương nổi tiếng khác. Chung quanh vùng tôi ở có rất nhiều đình, nhiều miếu. Những năm tôi còn nhỏ, cứ mỗi năm, các chùa, đình, miếu thường có lệ cúng lễ kỳ yên hay gọi nôm na là lễ thỉnh sắc (thỉnh bài vị). Những lần lễ lộc như thế, ban hội tề của các nơi đó mời các đoàn hát bộ hoặc các gánh cải lương nho nhỏ về hát chầu và tôi cũng như đa số những đứa trẻ trong xóm thường chen vào đình, miếu đứng sau cánh gà xem hát một cách say sưa. Những buổi hát chầu như vậy đã thấm nhập vào tâm hồn thơ dại của tôi bao nhiêu tuồng tích, với bao văn vẽ bình dị như một dấu ấn theo tôi đến tận mãi bây giờ.

Nếu chỉ nói đến việc vui chơi mà bỏ quên việc học thì quả thật là một điều thiếu sót lớn, vì vậy tôi cũng muốn nói đến ngôi trường đầu đời của tôi, trường Tiểu học Chánh Hưng. Trường nằm trên ngã quẹo ra Bến Ba Dình, mặt trước và phía hông trái ngó ra kênh Tàu Hủ, phía sau giáp đình Ong, hông phải có một trại chằm lá của ông bà Năm Sắm. Lá dừa nước từ Lục Tỉnh đem lên đuợc thợ gia công chằm lại thành từng phiến dùng để lợp nhà. Từ nhà tôi đến trường phải đi ngang qua chợ Chánh Hưng và ngã ba Bến Ba đình. Tôi thích ngã ba nầy vì nơi đó có quán ông Tiều bán nước nhận mà tôi thường ghé mua từng viên đá bào nhận chặt có chan si rô và một chút nước chanh muối trên mặt thơm ngon vô cùng. Trong suốt thời gian bao năm ở bậc Tiểu học, hình ảnh ghi mãi trong tôi là hình ảnh một ngày tan học năm cuối cùng. Hôm đó như thường lệ, tiếng trống tan trường vừa dứt, bọn học trò chúng tôi túa nhau ra về. Bỗng phía trước tôi có tiếng la lớn “Thằng chỏng chết trôi, thằng chỏng chết trôi tụi bây ơi ." Lúc đó nước cạn, lòng sông lộ hẳn bùn sình, một xác chết trôi sông phình to đang phơi mình nửa trên bãi cạn, nửa dưới nước sâu. Ðó là lần đầu tiên trong đời tôi thấy một xác người chết và cũng là lần đầu tiên tôi biết thế nào sự khác biệt giữa sống và chết. Tôi không nhớ tôi như thế nào lúc đó, chỉ nhớ rằng hôm ấy về nhà tôi không nuốt được buổi cơm trưa.

Những ngày không vui hoặc những hôm rảnh rỗi tôi hay ra bên hè leo cây nhản hoặc tập xe đạp. Giữa hè nhà tôi và hè nhà ông bà Ba hàng xóm có hàng rào xương rồng ngăn đôi. Tôi thường bắt gặp chị Tỏ, con gái út của ông bà Ba, ngồi thì thầm với chị Ðỗ Ngọc Trinh, con của bác Tư Lô trong xóm. Không biết hai chị bàn tán điều gì, nhưng mỗi lần thấy tôi tò mò đứng nghe, hai chị thường cười và khoát tay bảo tôi đi nơi khác chơi, đừng để ý chuyện người lớn, tôi cũng cười phụ họa và lảng đi nơi khác vì nghĩ rằng hai chị chắc đang nói chuyện bồ bịch với nhau. Nhiều năm sau nầy, tôi mới rõ ra là hai chị bàn chuyện vô bưng với Cách Mạng, nhưng cuối cùng chỉ có chị Trinh thực hiện chương trình còn chị Tỏ vẫn sống đời thường như mọi người. Sau ngày 30.4, chị Trinh trở về và lúc tôi đã sang Y’, thư từ người thân gửi qua bảo rằng chị có thời giữ chức Thứ trưởng Bộ Phát Triển Kinh Tế, còn chị Tỏ lập gia đình và cùng chồng nghe nói hình như vượt biên định cư tận phương xa ở hải ngoại. Bạn bè tôi, bạn học hoặc bạn cùng xóm tôi có khá nhiều. Thân quen nhau qua trò chơi con trẻ, qua những đêm trăng thu rước đèn khắp xóm, những ngày nắng hạ hớt cá, thả diều. Sau nầy lớn lên, những thằng bạn trai có đứa thành danh đỗ đạt, có đứa vùi thân vì chiến cuộc đôi bên của quê hương, dù chết cho bên nầy hay bên kia tôi tin rằng họ đều nghĩ rằng họ đã đem thân xác mình làm phân bón cho hoa màu đất nước. Những cô bạn gái đa số tiếp tục truyền thống của các bà mẹ giữ việc tề gia, chồng con, nội trợ. Rất hiếm thấy các bạn gái của tôi thành nhân đỗ đạt, có lẽ vì vậy má tôi vẫn thường hay bảo “Con gái Chánh Hưng sanh ra để làm vợ hiền, dâu thảo mà thôi “.

Người Chánh Hưng hiền hòa, cục mịch, giận hờn không giấu giếm, thương ghét chẳng đậy che. Mắng chửi nhau hôm trước, hôm sau cúng giỗ đã thấy bánh rượu, trà mời. Cửa không khóa, sân không đóng, tin nhau như tin người thân ruột thịt, tiền của không nhiều nhưng tình nghĩa mênh mông.

Bên kia cầu chữ Y là thế, một ốc đảo xanh màu, màu xanh của nước những dòng kênh, màu xanh của cỏ cây trên mặt đất và màu xanh của lòng người hướng vọng tương lai. Vậy mà tôi đã bỏ đó mà đi, đi khi chưa làm được một điều gì ích lợc cho nơi đã nuôi nấng tôi thành người, đi khi nước kinh đôi chưa cạn và những con đò vẫn tiếp tục ngày hai buổi nối Chánh Hưng với Chợ Lớn – Saigon. Hai mươi mốt năm dài sống đời viễn xứ, đã bao lần tôi thở dài “chiều chiều ra đúng ngõ sau, trông về xóm củ ruột đau chín chiều “.

Năm 1995 tôi đã một lần trở lại, Chánh Hưng ngày tôi về với bao “thương hải tang điền “ nhưng ngôi nhà của cha ông vẫn còn đó và từ đấy đến nay tôi vẫn ước ao thêm một lần tìm đến đó. Tin tức người thân từ VN gửi qua cho biết, chánh phủ đã xây cầu Nguyễn tri Phương nối bên nầy kinh Tàu Hủ với bên kia kinh Dôi như một thôi thúc tôi sớm trở về để thấy sự đổi thay trọng đại đó. Và hơn thế nữa, nếu quê hương Việt Nam là hình ảnh mẹ cha, thành phố Saigon mang bóng dáng người tình, thì Chánh Hưng thương nhớ là bạn tri kỷ với tôi mà cuộc sống nầy trong chúng ta có mấy ai bỏ được người tri âm, phải không các bạn?

HUỲNH NGỌC NGA
Torino, ITALIA - 04.11.2004