(Ất Dậu 09-02-2005 đến 28-01-2006)

 (Trích dẫn tác phẩm Tìm Hiểu Tử Vi Đẩu Số Và Địa Lý, quyển hạ của Gs Nguyễn-Phú -Thứ)

 

                   Sau khi năm Giáp Thân chấm dứt, thì đến năm Ất Dậu được bàn giao từ giờ giao thừa bắt đầu ngày thứ tư, 09-02-2005 để cầm tinh đến 24 giờ ngày 28-01-2006. Năm Ất Dậu này thuộc hành Thủy và mạng Tuyền Trung Thủy tức nước dưới suối, giống năm Giáp Thân, nhưng  thuộc Âm trong khi năm Giáp Thân thuộc dương, cho nên năm Ất Dậu này xem như Âm thịnh Dương suy,  có can Ất đứng thứ nhì Thập Thiên Can thuộc Mộc và có chi Dậu thuộc Kim. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành,  thì  năm  này "Chi  khắc  Can " tức  Đất  khắc Trời. Bởi vì : "Mạng Kim khắc mạng Mộc". Do vậy, năm này cũng giống y chang như năm : Tân Tỵ (2001), Quý Mùi (2003) và Giáp Thân (2004) vừa  qua, mặc  dù  có CanChi khác nhau. Được biết năm Dậu vừa qua là năm Quý Dậu thuộc hành Kim, nhằm ngày thứ bảy, 23-01-1993 đến 09-02-1994.

                   Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông xuất hiện được minh định quảng bá từ năm thứ 61 của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2005 = 4642, rồi đem chia cho 60 thì có kết quả Vận Niên Lục Giáp thứ 78 bắt đầu từ năm 1984 cho đến năm 2043. Do vậy, năm Ất Dậu 2005 này là năm thứ 22 của Vận Niên Lục Giáp 78 và năm Dậu kế tiếp sẽ là năm Đinh Dậu thuộc hành Hỏa, nhằm ngày thứ bảy tính từ 28-01-2017 đến 15-02-2018.

                   Năm Dậu tức cũng là , cho nên trong bàn dân thiên hạ cũng thường nhắc nhở luôn trong sinh hoạt xả hội hằng ngày, từ đó mới có những từ ngữ liên quan, xin trích dẫn như sau :

Dậu là con đứng hạng thứ 10 của 12 con vật trong Thập Nhị Địa Chi. là loài gia súc thường được nuôi trong nhà như : Gà, Vịt, Heo, Chó, Mèo.v.v. Nhưng có cái đặc biệt là có 2 chân cùng với Vịt, trong khi các gia súc khác là Heo, Chó, Mèo .v.v thì có 4 chân.

                  Gà là loài lông vũ giống như loài Công, đẻ trứng, nhưng Công có vị trí cách biệt nhau hèn sang, bởi vậy, trong thành ngữ chúng ta có câu:

"Gà muốn áo Công"

                    Hơn nữa, thịt hay trứng để cho mọi người thường dân ăn, trong khi thịt hay trứng Công rất trân quí và hiếm có, cho nên Bà Từ Hi Thái Hậu mới làm món Trứng Công để khoản đãi phái đoàn sứ thần các quốc gia Tây Phương vào Tết nguyên đán năm Canh Tý 1874, xin trích dẫn như sau :

                   Trong dân gian thường nói : "Nem Công, Chả phụng" để chỉ hai món ăn thuộc hàng trân vị. Loài công trước kia không phải là gia súc, cho nên muốn tìm công phải vào rừng núi xa xôi may ra tìm được. Nem Công dù hiếm quí nhưng vẫn còn tương đối dễ kiếm, dễ làm so với trứng công, bởi thứ nhứt loài công làm tổ ở những nơi xa xôi hẻo lánh, trên cành cao hay vách đá cheo leo khó tìm ra được. Thứ hai là dù có tìm ra được chỗ công đang ấp trứng thì cũng không dễ gì đến gần ổ, vì công rất hung dữ, chống cự kịch liệt và cuối cùng nếu thấy không bảo vệ được ổ trứng, thì chúng đập bể nát hết chứ không để lọt vào tay ai.

                   Bà Từ Hi Thái Hậu sai người đi lấy trứng công, nhưng chẳng ai làm được, bà rất phiền muộn. May thay, có một vị tướng quân  trẻ tuổi xin vào ra mắt và tâu rằng: Ông có người anh bà con ở Tứ Xuyên nuôi được bầy Khỉ 100 con, thông minh lanh lợi, được huấn luyện thuần phục, nghe được tiếng người, chuyên đi hái trà cùng tìm các được thảo hiếm hoi quí giá ở vùng rừng núi xa xôi hẻo lánh hiểm trở. Ông tin rằng nếu tập luyện cho lũ Khỉ chúng nó có thể lấy được trứng công. Bà Từ Hi Thái Hậu nghe xong trong lòng hoan hỉ, rồi truyền đem 1000 lạng vàng ròng cùng với 100 tấm gấm vóc Bạch Cầu thượng hạng ban cho viên tướng nọ làm lộ phí đi Tứ Xuyên lo việc kiếm trứng công, nếu xong việc sẽ tưởng thưởng thêm, mỗi trứng 10 lạng vàng ròng nữa. Viên tướng nọ lãnh lịnh ra đi ngay cùng người anh bà con huấn luyện đoàn Khỉ. Họ thành công, lấy được 500 trứng công, nhưng thiệt hại khá lớn bầy Khỉ, bởi vì bị công mổ chết hết một phần ba. Tuy nhiên, Bà Từ Hi Thái Hậu có trứng công để khoản đãi khách quí.  

                   Thật đúng với câu : "Có tiền mua tiên cũng được" là thế đó. (tài liệu này do Mọt Sách  sưu tầm và tường thuật).

                 Trở lại giống Việt-Nam, chúng ta thường thấy các loại như sau :

                 Gà Nhà tức Gia Kê : là loại thường nuôi gần nhà, sáng thả ra  nuôi trong vườn, chiều tối chúng nó trở về ngủ trong chuồng, ngày chỉ cho ăn hai lần. Các loại gà nhà thường thấy là : Gà trống, gà mái, gà tơ tức gà giò, gà tre, gà ác, gà tàu, gà nòi (chọi) tức Gà để đá nhau, gà lôi tức Gà Tây.v.v. nhờ nuôi như thế, nên thịt chúng nó rất  thơm ngon hơn các nuôi nhốt trong chuồng để bán thịt hay trứng. Đó là, kỷ nghệ.

                   Gà rừng tức Sơn Kê : là loại sống trong rừng, nhỏ con, bay giỏi và rất hung dữ lại hiếu chiến.

                   Gà nước  : là loại sống ngoài đồng ruộng, hình dáng giống Gà, nhưng bay rất giỏi như loài chim.

                   Gà gô tức loài chim Đa đa thường sống đồi núi  có cây thưa.

                   Gà cồ hay Gà trống tức Hùng Kê có thân hình lớn con, có mồng đỏ chót rất oai vệ.

                   Gà mái không có mồng đỏ và không oai vệ như gà trống, cho nên người nào có gương mặt tái mét, thì thường bị thiên hạ nói có bộ mặt như gà mái.

                   Gà giò tức Gà tơ thường để ăn thịt.

                   Gà ác thường có bộ lông màu trắng, thịt màu đen, chân đen xì, nhỏ con, rất hiền không hung dữ như Gà nòi (chọi) thường đá nhau. Loại gà này, là loại Gà nhà,  trong dân gian rất thích thịt nó để hầm với thuốc Bắc như : Sâm, Nhãn Nhục,  Thục Địa .v.v. ăn rất bồi bổ cho cơ thể. Đó là, ích lợi con Gà ác, nhưng không biết tại sao nó mang tên Gà ác?

                   Gà so mới đẻ trứng lứa đầu. Các trứng đẻ đầu được gọi là trứng Gà so.

                   Gà Tre là loại nhỏ con, còn Gà trống tre thì có màu sắc sặc sỡ, lại thích đá nhau, không khác Gà trống nòi, nó cũng có cựa nữa.

                   Gà tàu có bộ lông hơi nâu, da vàng, thịt ăn rất ngon lại mềm và dai nếu nuôi thả trong vườn.

 

                   Khi nói đến Gà nòi để đá nhau, thường thấy có các bộ lông như sau :

                   Gà Điều có bộ lông màu đỏ.

                   Gà nhạn có bộ lông như loài Nhạn.

                   Gà Bướm có bộ lông có lốm đốm như loài Bướm.

                   Gà Chuối  có bộ lông nhiều màu như: trắng, đỏ, vàng, nâu, xám lốm đốm như thân cây chuối.

                   Gà Xám có bộ lông màu xám.

                   Gà Ô  có bộ lông đen tuyền.

                   Khi viết đến đây, tôi lại nhớ từ ngữ Việt-Nam mình rất phong phú, mặc dù cùng màu đen, nhưng lại dùng khác nhau, từ con vật  đến vật dụng, ví như : Gà Ô (Gà đen)  - Mèo Mun (Mèo Đen)  - Mực Tàu (Mực đen)  - Dầu Hắc (Dầu đen)  - Mắt huyền (Mắt đen)  v.v.

                   Gà Ó có lông hay mắt giống như chim Ó...

                    Ngoài ra, trong Ca dao, Tục Ngữ, Thành Ngữ cũng như truyền khẩu trong dân gian cũng có rất nhiều, nói về , xin trích dẫn như sau :

                   lạc bầy kêu chiu chít,

                   Phụng lìa Loan, Phụng lại biếng bay

                   Xa em từ mấy bửa rày,

                   Cơm ăn  không đặng áo gài hở bâu.

 

                   nào hay bằng Gà Cao Lảnh,

                   Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân.

 

                   Con cục tác lá chanh,  

Con Lợn ụt ịt mua hành cho tôi.

Con Chó khóc đứng khóc ngồi,

Mẹ ơi! đi chợ mua tôi đồng riềng.

 

tơ xào với mướp già,

Vợ hai mươi mốt, chồng đã sáu mươi.

Ra đường chị giễu em cười,

Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng;

Đêm nằm tưởng cái gối bông,

Giật mình gối phải râu chồng nằm bên.

 

Tuổi Thân  con Khỉ ơ lùm,

Chuyền qua chuyền lại, té ùm xuống sông.

Tuổi Dậu con vàng bông,

Có mỏ có mồng, sang gáy ó o ...

 

Nuôi phải chọn giống ,

Gà ri giống bé nhưng mà đẻ sai.

 

Máu lại tẩm xương ,

Máu người đem tẩm xương ta bao giờ.

 

Chị kia bới tóc đuôi ,

Nắm đuôi chị lại hỏi nhà chị đâu ...?

 

Mẹ con Vịt  chít chiu,

Mấy đời dì ghẻ mà thươngcon chồng.v.v.(ca dao)

 

   Về Tục Ngữ xin trích dẫn như sau :

 

Chớp đông nhay nháy,gáy thì mưa.

Trẻ trộm , già trộm Bà.

cựa dài thì rắn, cựa ngắn thì mềm.

cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau.

đen, chân trắng mẹ mắng cũng mua.

trắng, chân chì mua chi giống ấy.

béo thì bán bên ngô, Gà khô bán láng giềng.

chê thóc chẳng bới thì người mới chê tiền.

người gáy, nhà ta sáng.

què ăn quẩn cối xay.

Con tức nhau tiếng gáy .v.v. (tục ngữ).

 

   Còn thành ngữ thì :

 

Quẹt mỏ như .

Sợ nỗi da Gà.

Thóc đâu no , cơm đâu no Chó.

Mặt tái như cắt tiết.

Tóc đuôi , mày lá liễu.

Tội vạ Vịt.

Trấu trong nhà để ai bới.

Trông hoá Quốc.

Vắng chủ nhà, mọc đuôi tôm.

Rối như mắc đẻ.

Rũ như cắt tiết.

trống nuôi con.

què bị Chó đuổi.

muốn áo Công.

nhà lại bới bếp nhà.

Một tiền , ba tiền thóc.

mái đá cồ.

Nửa đêm gáy.

đẻ cục tác.

mái gáy gở .v.v.(thành ngữ)

 

                   Viết đến thành ngữ : "Gà mái gáy gở". Đó là, một việc làm hay một điềm bất thường, bởi vì thói đời thường con trống mới gáy, con mái thường không gáy, chỉ khi nào nó đẻ xong thì cục tác mà thôi, cho nên việc con mái gáy là việc bất thường và trong xóm làng nào nghe được tiếng mái gáy, thì cho là điềm gở tức bất thường, không  khác cô  hay  bà  nào đó  trong  xóm làng có hành động bất thường hay quá quắc hoặc đôi khi làm ô-nhục gia phong... Nhân đây, xin trích dẫn truyện của Bà Võ Tắc Thiên như sau :

                   Vào đời nhà Đường ở bên Tàu, vua Đường Thái Tôn tuyển Võ Thị vào cung làm Tài Nhân. Khi vua Thái Tôn lâm trọng bịnh, thì Võ Thị cố ve vãn Thái Tử. Lúc vua cha chết, Thái Tử Đường Cao Tôn lên ngôi, thì Võ Thị ra tay chiếm ngôi Hoàng Hậu, để trở thành Võ Hậu. Từ đó, Võ Hậu lấn quyền vua và rất độc đoán. Bước đầu, Võ Hậu tự tay phế Thái Tử Lý Trung (con lớn), để lập con thứ là Lý Hoằng. Sau thấy Lý Hoằng khó dạy bảo, Võ Hậu liền giết Lý Hoằng rồi lập Lý Hiền, kế đến Võ Hậu truất bỏ Lý Hiền và cho Lý Triết lên làm Thái Tử. Khi vua Cao Tôn mất, Lý Triết lên ngôi lấy hiệu là Trung Tôn, nhưng quyền bính đều nằm trong tay của mẹ làVõ Hậu. Được một năm, thì Trung Tôn lại bị mẹ truất phế xuống giữ chức Lư Lăng Vương, để người em là Lý Đản lên ngôi. Sau cùng bà lại truất phế luôn Lý Đản, rồi tự xưng là Võ Tắc Thiên Hoàng Đế đổi quốc hiệu là Chu. Còn những thân vương nhà Đường, ai có ý chống lại đều bị Bà tru diệt sạch hết.

                   Từ đó, Bà Võ Thị trở thành Bà Võ Tắc Thiên Hoàng Đế, xem việc nước như việc nhà của Bà. Đó là, sự bất thường, không khác " Gà mái gáy gở " vậy.

                   Không những trong các : Ca Dao, Tục NgữThành Ngữ nói đến ,  mà trong các câu hò cũng nói đến Gà Gà, ví như sau :

Gió đưa cành trúc là đà,

Tiếng chuông Thiên Mụ, canh thọ Xương.

Khi nói về các giai thoại và nguồn gốc về cũng như phương pháp đá hay dùng để nấu các thức ăn thì rất nhiều. Bởi vì, là một trong những gia súc xem như rất được mọi người biết đến, nếu kể ra hết thì sẽ tốn nhiều thời giờ vô ích, xin tạm chấm dứt đề tài này. Nhân đây, xin trích dẫn một số tiêu đề về: Về giai thoại về Gà sau đây :

                   - Con Gà nơi thành Cổ Loa.

                   - Tả Quân Lê Văn Duyệt và Thú chọi Gà.

- Con Gà của Trạng Quỳnh.

- Mất ngôi vì Gà.

- Hải Ninh Quận Công chết vì Gà.

                      ...v.v.

                   Trở lại bàn về tuổi Dậu tức con , chúng ta đã biết nó có hai chân như con Vịt, nhưng nó được vào hạng thứ 10 trong Thập Nhị Địa Chi, trong khi con Vịt đứng ngoài lề. Dù rằng có hai chân, nhưng nó rất tài ba hơn hai con vật có 4 chân là : Tuất (Chó) -Hợi (Heo) được vào trong Thập Nhị Địa Chi.

                  Giờ Dậu = là giờ  từ 17 giờ chiều  đến  đúng  19giờ tối.

Tháng Dậu = là tháng tám của năm âm lịch.

                   Khi viết năm nay là năm Ất Dậu, tôi lại nhớ năm Ất Dậu thuộc hành Thủy (13-02-1945 đến 01-02-1946),  ở Miền Bắc bị thực-dân Pháp cấu kết với quân- phiệt Nhựt làm cho 2 triệu đồng bào ruột thịt chết vì đói một cách oan uổng và tàn nhẫn (nếu cần xin xem lại quyển thượng từ trang 385 đến 394).

 

    Tuổi Dậu được Tam Hạp là : Tỵ, Dậu Sửu. Bởi vì, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành thì : Tỵ có hành Hỏa, Dậu có hành KimSửu có hành Thổ, cho nên chúng ta phân tách từng cặp tuổi chỉ thấy tuổi Sửu được tương sanh với tuổi Tỵ và tuổi Dậu như sau :

[   cặp Sửu Dậu có :

Hành Thổ (Sửu) sanh hành Kim(Dậu), cho nên được tương sanh. Bởi vì, hành Thổ bị sanh xuất và hành Kim  được sanh nhập.

v   cặp TỵSửu có :

                   Hành Hỏa (Tỵ) sanh hành Thổ (Sửu), cho nên được tương sanh. Bởi vì, hành Hỏa  bị sanh xuất hành Thổ được sanh nhập. Trong khi, hành Hỏa(Tỵ) khắc hành Kim (Dậu) cho nên  bị tương khắc. Bởi vì, hành Hỏa được khắc xuấtKim bị khắc nhập. Do vậy, cặp tuổi TỵDậu xem như Không  Được  Tương  Hạp, chỉ có tuổi  Sửu  được TƯƠNG H[1]P cả tuổi Dậu tuổi Tỵ mà thôi hay nói khác đi, tuổi Sửu được Nhị Hạp cả tuổi Dậu và tuổi Tỵ.

    Trái lại, tuổi Dậu thuộc nhóm Tứ Tuyệt  là :

Tý, Ngọ, MãoDậu. Trường hợp này giống như tứ mộ. hay tứ xung. Nếu chúng ta chịu khó để ý và phân tách sẽ thấy nhóm này, có từng cặp khắc kỵ nhau mà thôi, ví như:

   Cặp Tý Ngọ bị tương khắc, bởi vì : có hành ThủyNgọ có hành Hỏa. Căn cứ theo luật thuận hạp hay Khắc Kỵ của Ngũ Hành thì "hành Thủy (Tý)  khắc hành Hỏa (Ngọ)".

   Cặp Mão Dậu bị tương khắc, bởi vì : Mão có hành MộcDậu có hành Kim. Căn cứ theo luật thuận hạp hay Khắc Kỵ của Ngũ Hành thì "hành Kim (Dậu)  khắc hành Mộc (Mão)".

   Cặp Ngọ Dậu bị tương khắc, bởi vì : Ngọ có hành HỏaDậu có hành Kim. Căn cứ theo luật thuận hạp hay Khắc Kỵ của Ngũ Hành thì "hành Hỏa (Ngọ) khắc hành Kim (Dậu)".

   Trong khi đó, cặp Dậu Tý thì được tương sanh, bởi vì : Dậu có hành KimNgọ có hành Hỏa Căn cứ theo luật thuận hạp hay Khắc Kỵ của Ngũ Hành thì "hành Kim (Dậu) sanh hành Hỏa (Ngọ)".

                   Ngoài ra, tuổi Dậu thuộc chi âm, kết hợp với 5 can âm, có hành gì ? xin trích dẫn như sau :

 

Các tuổi Dậu

Thuộc hành gì?

Ất Dậu

Thủy

Đinh Dậu

Hỏa

Kỷ Dậu

Thổ

Tân Dậu

Mộc

Quý Dậu

Kim

 

                   Trước khi tạm kết thúc bài này, tôi xin trích dẫn thời gian 10 năm những năm con vừa qua và sắp tới có Hành như thế nào? để cống hiến quý bà con đồng hương xem mình có phải sanh đúng năm Dậu hay không như dưới đây  :

 

Tên Năm

Thời Gian

Hành Gì?

Kỷ Dậu

22-01-1909 đến 09-02-1910

Thổ

Tân Dậu

08-02-1921 đến 27-01-1922

Mộc

Quý Dậu

26-01-1933 đến 13-02-1934

Kim

Ất Dậu

13-02-1945 đến 01-02-1946

Thủy

Đinh Dậu

31-01-1957 đến 17-02-1958

Hỏa

Kỷ Dậu

17-02-1969 đến 05-02-1970

Thổ

Tân Dậu

05-02-1981 đến 24-01-1982

Mộc

Quý Dậu

23-01-1993 đến 09-02-1994

Kim

 

Ất Dậu

09-02-2005 đến 28-01-2006

Thủy

 

Đinh Dậu

28-01-2017 đến 15-02-2018

Hỏa

       

 

                   Và xin trích dẫn thêm về những cây cỏ mang tên như sau :

-  Cây mồng (mào) Gà trắng (*).

-  Cây mồng (mào) Gà đỏ (*).

   (*) hai cây này cũng có tên là Dã Kê Quan.

-  Cây Ruột Gà.

-  Cây seo (theo) Gà tức là Phượng vĩ Thảo

-  Cây keo Dậu tức là cây Bồ Kết.

-  Cây Kê huyết Đằng.

-  Cây Kê Niệu Thảo tức là câyThường Sơn.

-  Cỏ trói Gà tức là cỏ tỹ Gà.

-  Cỏ tiết Gà.

   ...v.v.

Đó là những cây cỏ có thể biến chế để trị bịnh thông thường, xem như dược thảo.

               

                    Nhân dịp bước sang năm Ất Dậu kính chúc tất cả quý bà con đồng hương được Bình An và mọi nhà được Hạnh PhúcVạn Sự Như Ý đúng như các câu như sau :

                   ...Canh khuya gáy máu đào mới ngưng.

hoặc là :

                   ...Tới về ổ dân mình bình an.

                   Mong lắm thay! nếu được như vậy, thì đất nước mình sẽ càng ngày càng phồn vinh, sung túc và giàu đẹp trong tương lai.

 

Hàn Lâm Nguyễn-Phú-Thứ