Kiều Chinh, 50 Năm Điện Ảnh
70 Năm Cuộc Đời
 

Triều Giang

 


Năm 2007 là năm đánh dấu 50 năm sụ nghiệp điện ảnh và 70 năm tuổi đời của nữ tài tử Kiều Chinh. Viết về một con người và một cuộc đời dài gần ¾ thế kỷ với không gian quá nửa vòng trái đất; từ thành phố Hà Nội, tới thủ đô điện ảnh Hollywood, với những thành quả có thể trải trên nhiều ngàn trang sách, mà phải gói ghém trong khuôn khổ một bài báo, thực chỉ là làm công việc "cưỡi ngựa xem hoa". Trong tinh thần ấy, mời độc giả đi thăm một vài nết chính về cuộc đời và sự nghiệp của người nghệ sĩ khả
ái trong thời đại chúng ta.
 

 


50 Năm Điện Ảnh

Từ Ni Cô Của "Hồi Chuông Thiên Mụ" đến "Người nghệ sĩ huyền thoại của VN và Á Châu"

Sự nghiệp 50 điện ảnh cuả nữ tài tử Kiều Chinh, một sự nghiệp mà nửa thế kỷ qua chưa có một diễn viên điện ảnh người Việt nào có thể so sánh được. Bắt đầu từ năm 1957, khi ấy, vừa tròn 20 tuổi, chị được mời đóng vai đầu tiên là ni cô trong phim " Hồi chuông Thiên Mụ" mà nhà sản xuất là cựu đại sứ Việt Nam Cộng Hoà tại Hoa Kỳ, ông Bùi Diễm.

Có thể nói, chị là một trong những người có mặt đầu tiên trong ngành điện ảnh Nam VN. Từ lúc phôi thai ở giữa thế kỷ 20, đến khi tạm chấm dứt vào năm 1975, chị đã đóng góp vào điện ảnh Nam VN 22 cuốn phim. Từ những phim đóng với các nhà sản xuất , đạo diễn VN đến các nhà đạo diễn và sản xuất Á châu như Ấn Độ, Phi Luật Tân, Thái Lan, Đài Loan, Singapore, cho đến một số phim Hoa kỳ quay tại Á Châu như Operation CIA, A Yank in Vietnam, Devil Within, Destination Vietnam. Hai phim VN cuối cùng là "Người Tình Không Chân Dung" của Đạo Diễn Hoàng Vĩnh Lộc và "Hè Muộn" của đạo diễn Đặng Trần Thức, chị đóng vai chính, sản xuất bởi hãng phim "Giao Chỉ", hãng phim do chính chị thành lập và điều hành. Có thể nói, phim Devil Within với vai công chuá Ấn độ năm 1971 là phim đưa sự nghiệp của chị lên đến tột đỉnh vào thời kỳ này.

Ngoài ra, chị cũng từng điều khiển một Talk Show trên đài truyền hình Sài gòn. Chị đã phỏng vấn nhiều gương mặt lừng danh của Hollywood như Danny Kay, Tippi Hedren... Chị đã đoạt giải Đệ Nhất Diễn Viên của Nam Việt Nam năm 1969, và của Đại Hội Điện Ảnh Á Châu năm 1973.

Con đường Hollywood gian nan với trên 100 phim, truyền hình và giải Emy Award

Nếu trước năm 1975 điện ảnh đã tìm đến chị như một sự tình cờ, chị đã gặt hái hết thành công này tới thành công khác từ những ngày đầu, thì khi đến Hoa Kỳ lúc đã 38 tuổi, người diễn viên đệ nhất của Nam VN đã quyết định ở lại với điện ảnh dù phải bắt đầu lại từ số không với Hollywood, nơi mà hàng ngàn nghệ sĩ trẻ Hoa Kỳ cũng như từ khắp nơi trên thế giới ước mong được len chân vào. Nhưng, cũng đã có biết bao giấc mơ bị dang dở với thất bại chua cay.

Từ những vai nhỏ chỉ có đôi ba giòng đối thoại trong phim, hai năm sau, chị đã được thủ vai chính bên cạnh tài tử bậc nhất Alan Alda trong chương trình truyền hình M*A*S*H. Sau khi đóng phim với Kiều Chinh, Alan Alda đã nói về Kiều Chinh trên Johnny Carson Show và trên báo TV Guide:

“ Tài ba như cô ấy, nhất định Hollywood phải có chỗ cho cô”

Tính đến hôm nay, chị đã có mặt trong trên 100 phim và chương trình truyền hình. Trong đó có những phim thật nổi tiếng như The Letter (1986), Welcome Home (1989), Vietnam-Texas (1989), The Joy Luck Cub (1993), Riot (1997), Catfish in Black Bean Sauce (1999), What Cooking (2000), Face (2001), Tempted (2003), Journey from The Fall (2004). Có thể nói phim Joy luck Club xác nhận vị trí hàng đầu của chị trong thế giới Hollywood.

Năm 1996, Hàn Lâm Viện Khoa Học và Truyền Hình đã vinh danh Kiều Chinh và trao giải Emy Award, một giải cao quý nhất của Truyền Hình Hoa Kỳ cho phim tài liệu "Kiều Chinh A Journey Home", do Patrick Perez, Fox Telievision thực hiện. Chị còn lãnh nhận nhiều giải thưởng khác trong các đại hội điện ảnh từ Âu Châu, Á Châu, đến Mỹ châu như Life Time Achievement Award Cuả Đại Hội Điện Ảnh Á Châu tại San Diego 2006, The 10th Festival Internazionale Cinema Delle Donne, tại Ý, 2003.

Từ Diễn Viên Đến Diễn Giả

Sự thành công của chị được nhiều giới ái mộ. Nhờ cách nói chuyện thật truyền cảm, thu hút đám đông, chị được mời làm diễn giả nhà nghề (professional lecturer) của tổ chức The Greater Talent Network, Inc., một tổ chức chuyên cung cấp những diễn giả nhà nghề cho các trường đại học và các tổ chức văn hoá trên toàn nước Mỹ. Trên 13 năm qua, từ 1994, chị đã đứng trên hàng trăm diễn đàn cuả Hoa kỳ đề nói lên những điều khó khăn cũng như những đóng góp tích cực cuả người Mỹ gốc Việt, về kinh nghiệm cuả chị, một nghệ sĩ VN lưu vong cũng như chia xẻ cái nhân sinh quan đầy nhân bản của một phụ nữ VN trước mọi nghịch cảnh của cuộc sống. Chị là nguồn cảm hứng cho biết bao người trẻ Hoa Kỳ dù là gốc Á Châu, Âu Châu, Phi Châu, hay dân bản xứ.

Chị đã được Quốc hội Hoa Kỳ vinh danh là "Người Tị Nạn Năm 1990". 1986 được tổ chức Asian Pacific Woman Network tặng giải "Woman Warrior Arward", và nhiều giải thưởng cao quý khác. Chị thực là một sứ giả VN xinh đẹp, tài giỏi, đầy lòng nhân ái và là niềm hãnh diện của cộng đồng người Mỹ gốc Việt nói riêng và mọi người Việt Nam nói chung.

70 Năm Cuộc Đời

Kiều Chinh sinh ngày 3 tháng 9 năm 1937, tuổi Đinh Sửu, tại Hà Nội. Là con gái út của ông Nguyễn Cửu, một viên chức tài chánh cao cấp trong chính phủ Bảo hộ Pháp, và bà Nguyễn thị An. Năm 6 tuổi, chiến tranh đã cướp mất người mẹ và người em chưa chào đời cuả chị. Sau đó, chị sống được ít năm hạnh phúc với cha, với chị và người anh trong khung cảnh nhung lụa của giới thượng lưu Hà nội lúc bấy giờ.

Kiều Chinh bị ảnh hưởng người cha về học thức, về nhân cách, về sự yêu thương con cái và gia đình đến hy sinh hạnh phúc riêng tư của mình, quý mến bạn bè và nhất là lòng say mê điện ảnh không có gì thay thế được. Cha chị, ông Nguyễn Cửu, người con trai duy nhất của điền chủ họ Nguyễn, chủ nhân khách sạn Đồng Xuân, Hà Nội. Ông Cửu theo Tây học nhưng mang lý tưởng quốc gia và có tâm hồn nghệ sĩ. Trong phòng khách văn chương của gia đình họ Nguyễn thường lui tới những nhân vật thời danh của Hà Nội như ông Dương Đồ Cổ Hàng Trống, ông An hàng Đào, ông Phúc chủ nhân đồn điền Cam Bố Ha, ông Hùng tay đua xe hơi hạng nhất đường Hà Nội-Hải Phòng, cùng những nhà văn, nhà thơ tên tuổi như Ngọc Giao, Vũ Hoàng Chương, Lê văn Trương, Đinh Hùng... Là con út mồ côi mẹ từ nhỏ, Kiều Chinh được Bố thương đi đâu cũng mang theo, không cuộc họp mặt nào của bố mà thiếu vắng. Vì thế, chị đã thấm nhuần tư tưởng của Bố và những bằng hữu của ông.

Ngay từ thời thơ ấu, Bố còn luôn đưa cô "công chúa của bố" đi xem xi nê tại rạp Majestic hay rạp Philhamonique. Khi ngồi bên bố, không những xem phim lại còn được bố giảng giải cho từ truyện phim cho tới các tài tử. Phim ảnh do đó, đã ăn sâu vào tim óc chị từ thuở thơ ấu. Chị Kiều Chinh từng tâm sự: "Người đàn ông quan trọng nhất trong đời của tôi là bố tôi..."

Năm 1954, cuộc chiến tranh chống Pháp kết thúc bằng hiệp định Geneve, chia cắt hai miền Nam Bắc và cũng cắt đứt cuộc đời ấu thơ tươi đẹp, hạnh phúc nhưng ngắn ngủi của chị. Người chị của Kiều Chinh lập gia đình và theo chồng sang Pháp. Đêm trước ngày cả gia đình di cư vào Nam, người anh theo tiếng gọi thanh niên bỏ nhà tham gia kháng chiến. Sau hai ngày chờ đợi tại phi trường Bạch Mai, phút chót người cha đẩy cô con lên máy bay nói “Con vào Nam trước, Bố ở lại tìm anh rồi sẽ vào sau.” Đây là lần sau cùng Kiều Chinh trông thấy Bố.
Năm ấy chị mới 17 tuổi, một thân, một mình nơi xứ lạ, trông ngóng ngày gặp Bố , nhưng ngày ấy không bao giờ tới nữa. Kiều Chinh đã khóc hết nước mắt, khi thời hạn 300 ngày tiếp thu miền Bắc chấm dứt. Bức màn tre đổ xuống làm tan vỡ ước mơ cha con xum họp. Chiến tranh đã cướp mất tất cả những người thân yêu của chị.

Tại miền Nam Việt Nam , Kiều Chinh được gia đình một người bạn của Bố là ông bà Nguyễn Đại Độ giúp đỡ và sau này chị trở thành con dâu của gia đình. Kiều Chinh kết hôn với thứ nam của cụ Độ là anh Nguyễn Năng Tế, một sĩ quan nhẩy dù VNCH.
Lúc đó, chị mới 18 tuổi. Cuộc hôn nhân mang lại 3 người con, một gái hai trai.

Năm 1957, hai năm sau ngày di cư, Kiều Chinh được mời đóng vai ni cô trong cuốn phim đầu tiên "Hồi chuông Thiên Mụ" và nhiều phim sau đó. Dù là một diễn viên, khi ra ngoài được gọi là "minh tinh màn bạc" nhưng sau cánh cổng của gia đình, chị vẫn chu toàn mọi bổn phận làm dâu, làm vợ và làm mẹ trong một gia đình nền nếp kiểu Bắc.



Chuyến bay vòng quanh thế giới trong những giờ Nam VN hấp hối

Trung tuần tháng 4 năm 1975, chưa đủ một tuần sau khi trở về VN sau khi hoàn tất phim "Full House" tại Singapore, chị lại phải đáp chuyến máy bay thương mại cuối cùng rời khỏi VN..Niềm hy vọng được gặp ngưòi cha yêu dấu sau 22 năm xa cách đã bị dập tắt vì "nước mắt chảy xuôi", chị phải tìm cách đi sang Canada, nơi cả 3 người con của chị đang du học.Tới Singapore, chị bị bắt vào nhà giam vì thông hành ngoại giao mà chị đã được chính phủ VNCH trao cho sau khi chị được tặng tước hiệu "Sứ giả của Nghệ Thuật và Thiện Chí của VN", với phim "Devil Within" tại Ấn độ năm 1971, không còn gía trị. May sao lúc đó tạp chí Female tại Singapore có đăng bài về phim "Full House" và hình chị tại trang bià. Tờ báo đã giúp chị ra khỏi nhà giam và được lệnh rời Singapore trong vòng 48 tiếng đồng hồ.

Sau khi mất nước, mỗi người chúng ta đã trải qua một hành trình đi tìm tự do khó quên. Hành trình tìm tự do cuả Kiều Chinh cũng thật đặc biệt. Chiều ngày 25 tháng 4, 1975, chị bay chuyến bay vòng quanh thế giới trong lúc Sàigòn hấp hối, Chị không được phép nhập cảnh bất cứ một quốc gia nào vì, Nam VN đối với quốc tế lúc bấy giờ là đang trong tình trạng vô chính phủ. Chờ cho tới khi VN mất, lúc ấy chị mới có quyền xin tị nạn.

Sau 100 giờ bay, với những giờ phút đau khổ, lo sợ, nôn nóng đến tột cùng của cảnh "nước mất, nhà tan", với bộ quần áo, và chiếc sắc tay duy nhất trên người, Kiều Chinh đã đáp xuống không biết bao nhiêu là phi trường chung quanh quả địa cầu. Đúng 6 giờ chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi chuyến bay của chị đáp xuống Torronto, Canada. Kiều Chinh mừng tủi ôm được ba người con trong tay, nước mắt trào ra khi nghe tin Saigon thất thủ.

Khi thành người tị nạn tại Canada, công việc đầu tiên Kiều Chinh là quét dọn, hốt phân gà, với số lương tối thiểu. Anh Tế lúc này cũng đã tới đảo Guam rồi sau đó sang Canada đoàn tụ với gia đình. Hiểu rằng đây không phải là đời sống của mình và tương lai các con, Kiều Chinh quyết định tìm mọi cách vào Mỹ. Tháng 7 năm 1975, nhờ sự bảo lãnh của người bạn cũ là tài tử Tippi Hedren , Kiều Chinh và gia đình sang định cư tại California.

“ Xin Nguyện cầu cho sự đoàn tụ cuả những gia đình bị chia lià vì chiến tranh”

Khi Kiều Chinh bắt đầu tìm cho chị được một chỗ đứng tương đối thì được tin bố mất sau những ngày lao tù. Ông đã chết trong cô đơn và thiếu thốn. Niềm hy vọng được gặp bố băng xương bằng thịt cũng tiêu tan. Cuộc hôn nhân kéo dài 25 năm, đã chính thức chấm dứt. Và khi hỏi về người chồng cũ cuả chị bây giờ đã có gia đinh mới, chị luôn nhẹ nhàng nói: "Anh Tế, đúng như cái tên mà các cụ đã đặt, anh ấy là một người rất tử tế. Chỉ tiếc duyên phận của mình chỉ có vậy. Bây giờ mình vẫn coi anh ấy như người anh, người bạn, thường gặp nhau trong những sinh hoạt chung của gia đình.”

Trong chuyến trở về VN lần đầu tiên năm 1995, sau 20 năm xa Sài gòn và 41 năm xa Hà Nội trong chuyến công tác cho Viêt Nam Children's Fund, tổ chức xây trường cho trẻ em VN, Kiều Chinh đã ôm lấy mộ của bố, nỗi đớn đau cuả 41 năm xa cách, nhớ thương bật thành tiếng khóc: "Bố ơi, con đã về! Chị đã khóc lặng người trước mộ phần của bố.

Nỗi đau khi nghĩ về những đày ải bố phải gánh chịu trong những ngày tù đày và những khốn khổ thiếu thốn cả miếng ăn, mọi người đều xa lánh khiến bố đã chết trong cô đơn và đói lạnh đã cắt từng tế bào của người nghệ sĩ VN tị nạn.

Vá trong những giờ vinh quang nhất cuả sự nghiệp, buổi lễ nhận giải Emy Arward cho phim tài liệu “Kieu Chinh, A Journey Home” của nhà sản xuất Patrick Perez; phim nói về chuyến thăm quê hương cuả Kiều Chinh. Chị đã tuyên bố trước hàng ngàn khan giả tại chỗ và hàng trăm triệu khán giả trên toàn thế giới qua những cuộc trực tiếp truyền hình:

“ Xin nguyện cầu cho sự đoàn tụ đưọc đến với tất cả các gia đình bị chia lià vì chiến tranh trên toàn thế giới”

Sống như 5 đời sống

Đã có rất nhiều nhà văn, nhà báo, nhà làm phim nổi tiếng Việt Nam cũng như ngoại quốc viết và nhận định về cuộc đời, và con người của chị Kiều Chinh. Mỗi người nhìn một cách khác nhau nhưng, người viết thích nhất là nhận xét của hai nhân vật, đó là nhà văn nữ Alison Leslie Gold, và nữ tài tử nổi tiếng Tippi Hedren.

Bà Alison Leslie Gold, người viết cuốn "Nhật ký của Ann Frank", một trong những "best seller" đã được dịch ra 16 thứ tiếng và được làm thành phim đoạt giải Emy Award năm 1994, phim "The Attic", Bà Gold đã viết về Kiều Chinh như sau:

"Kiều Chinh là một phụ nữ phi thường. Bà đã sống như 5 đời sống. Kiều Chinh đã sống như một nhân chứng chua cay và từng trải qua cơn lốc thời cuộc mang nhiều tính tranh cãi nhất cuả thời đại chúng ta. Tôi xin ngả mũ chào Kiều Chinh, một phụ nữ có sắc đẹp cao quý của viện bảo tàng, một nghệ sĩ với tài năng hiém có, và với tôi, Kiều Chinh là người bạn trung thực và cao quý."

Nhận xét về con người của chị Kiều Chinh, Tippi Hedren, một trong những tài tử hàng đầu của Hollywood, người đã bảo trợ Kiều Chinh vào Mỹ, đã nhận xét như sau:
"Kiều Chinh thực sự là một trong những phụ nữ can đảm nhất, mạnh mẽ nhất, và dịu dàng nhất mà tôi được quen biết trong suốt cuộc đời của tôi" ( Kieu Chinh is indeed one of the bravest, strongest, and gentlest woman I have ever met in my life.)

Cuộc đời của Kiều Chinh là một định mệnh khắc nghiệt, một thân phận nổi trôi với vận nước thăng trầm. Có thể nói, đời chị, hạnh phúc, đắng cay, thành công, thất bại đã đến mức tận cùng cuả nó. Nhưng chị đã vượt lên tất cả bằng nghị lực, sự quả cảm, lòng vị tha, một nhân cách đặc biệt, và bằng một sức làm việc kiên trì, bền bỉ hiếm có.

Sống giữa ánh sáng chói loà của kinh đô điện ảnh, thế giới của chị là thế giới của vật chất xa hoa với phấn son, áo quần, trang sức, xe cộ,,,nhất nhất phải là đệ nhất, nhưng chị sống rất nội tâm. Ngoài những giờ đi đóng phim và học hỏi, trau dồi nghề nghiệp, chị đã dành thì giờ và những gì chị có để yêu thương gia đình, yêu quý bạn bè, dành một phần đời không nhỏ cho các hoạt động xã hội từ những ngày còn ở VN với các thương bệnh binh và cô nhi quả phụ. Đến việc chia xẻ với người VN tị nan trong những ngày tháng bơ vơ tại xứ lạ, quê người, Và cho tới nay, hội VCF do chị là Chủ tịch sáng lập đã xây cất xong 42 trường tiểu học cho nhiều chục ngàn trẻ em Việt Nam tại các vùng quê từng bị tàn phá bởi chiến tranh.

Bí quyết nào giúp chị bảo đảm được những giá trị tinh thần kể trên nhưng vẫn tạo cho mình một bề ngoài với vẻ đẹp, với phong thái hàng đầu tại Hollywood? Chính là chị đã không chạy đua với hào nhoáng, xa xỉ, nhưng chị đã chọn cái đẹp cuả sự đơn gỉản nhưng thanh nhã và trang trọng, một sự giản đơn có chọn lọc nên không tầm thường. Chị là biểu trưng cho cái đẹp tự nhiên, kín đáo cổ điển luôn vững bền và đứng trên những cái đẹp rực rỡ, chói chang mau tàn, mau chán.

Kiều Chinh và những ước mơ hôm nay

Những ngày còn làm cho báo Sóng Thần trưóc năm 1975, một lần nhà văn Hoàng Hải Thuỷ có sắp xếp cho tôi phỏng vấn chị Kiều Chinh, nhưng vì một lý do nào đó mà tôi không còn nhớ, vào giờ chót cuộc phỏng vấn không thực hiện được. Phải chờ mãi đến năm 1983, khi còn làm việc thường trực cho Báo Ngày Nay, tôi mới gặp chị và thực hiện cuộc phỏng vấn chị đầu tiên tại Houston. Sau đó, tôi cũng đã viết một số bài khác về chị. và có gặp chị một lần nữa tại Houston và môt lần khác nữa tại DC. Còn lại chị và tôi thường trao đổi với nhau qua điện thoại. Mãi đến năm ngoái, khi chị hướng dẫn phái đoàn của hội Bảo Tồn Lịch Sử và Văn Hoá Người Mỹ Gốc Việt sang đảo Guam để nhận lãnh tài liệu lịch sử cuả người Việt tị nạn từ năm 1975, một số các anh chị em trong hội và tôi đã được sống với chị 4 ngày trọn vẹn. Chuyến đi lịch sử này ngoài việc hoàn tất việc sưu tầm chương sử đầu tiên của người Mỹ gốc Việt, chuyến đi còn giúp tôi hiểu rõ hơn, học hỏi nhiều hơn về một người bạn vong niên yêu quý mà tôi đã đưọc quen biết hơn 20 năm qua.

Tuy là chuyến đi 4 ngày, trừ 1 ngày đi đường, phái đoàn có mặt trên đảo Guam có 3 ngày nhưng đã có tới 7 cuộc thăm viếng, hội họp. Sự khác biệt về giờ giấc khiến những người trẻ trong phái đoàn có cố gắng nhưng đôi khi cũng không giấu được vẻ mệt mỏi. Riêng chị, chị lúc nào cũng tươm tất. Buổi sáng chị dậy sớm. Chị luôn là một trong những người có mặt tại "lobby" đầu tiên. Ngồi trên chiếc xe van chạy từ buổi lễ này sang những cuộc chào đón khác, chị luôn luôn giữ không khí tươi vui nhưng trang trọng.

Trong các buổi lễ và họp mặt, chị ngồi lắng nghe chăm chú. Những bài nói chuyện của chị được soạn thảo kỹ lưỡng. Khi đứng trước khán giả, chị thu hút người nghe bằng sự khoan thai, nhẹ nhàng và tiếng nói trầm ấm, rõ ràng, truyền cảm. Những bài nói chuyện của chị không dài nhưng cô đọng. Nhìn khán giả ngồi im phăng phắc nghe chị nói chuyện, nhìn những cái bắt tay trang trọng của ông bà Thống đốc, bà dân biểu, báo chí, và đại diện các ban ngành của chính quyền cũng như dân sự cuả đảo Guam để hiểu được sự quý trọng của người dân ở đây dành cho chị nói riêng và cho người Việt tị nạn nói chung. Chị đã là linh hồn, là sự thu hút và là niềm vui của chuyến đi lịch sử này.

Người viết cũng xin mở ngoặc ở đây để nói về những đóng góp to lớn của các anh chị trong hội và hai cơ quan truyền thông tháp tùng chuyến đi; đài Saigon-Houston Radio và đài truyền hình SBTN . Ngoài việc hy sinh thời gian, người tham dự còn phải đài thọ một phần lớn chi phí của chuyến đi. Riêng với chị Kiều Chinh, với vai trò diễn giả nhà nghề, mỗi bài nói chuyện của chị. trị giá hàng chục ngàn đô la, nhưng chị đã đóng góp tất cả cho kho tàng lịch sử và văn hoá người Mỹ Gốc Việt.Vì đó, chính là một trong những ước mơ cuối đời của chị.

Những giờ được ngồi bên chị trên những ghềnh đá cheo leo với biển xanh ngát và tiếng sóng vỗ rì rầm, hoặc bên những thảm hoa rực rỡ cuả "hòn đảo thần tiên của người Việt tị nạn", chị đã nói về những mơ ước cuả chị về một thư khố cho người Mỹ gốc Việt trong đó sẽ tàng trữ những văn kiện lịch sử, những hình ảnh, phim ảnh, sách báo cuả người Việt tự do, về việc sưu tầm và viết về những văn nghệ sĩ lưu vong VN, về niềm mong ước có một nơi chốn gọi là "Nhà Việt Nam." Nơi đây sẽ là linh hồn của cuả người Việt tị nạn, là nền móng của lịch sử và đời sống người Mỹ gốc Việt để cho thế hệ hôm nay và mai sau có nơi chốn để đi về, để thăm viếng, để lễ hội.

Trên chuyến bay dài hơn 5 tiếng đồng hồ từ Guam tới Tokyo, tôi đã ngồi bên chị để lắng nghe chị cho ý kiến về việc điều hành và phát triển hội. Ý kiến thật phong phú của một người đọc rất nhiều và kinh nghiệm sống rất dầy. Ở tuổi 70 mà chị vẫn làm việc và suy nghĩ với tốc độ của thanh niên 20-30. Thú thật, tôi nhiều lúc phải chạy theo chị hụt hơi. Chị chia tay với phái đoàn từ phiá trung và đông nưóc Mỹ tại phi trường Tokyo. Chị bắt tay và ôm từng anh chị em quyến luyến. Trong cái xiết tay thật chặt và thật ân cần dành cho tôi, chị thì thầm vào tai tôi: "Nhớ nghe, phải có Nhà Việt Nam"

Cuối tháng giêng 2007, nhân chuyến đến DC để viện bảo tàng Smithonian vinh danh, chị cũng không bỏ qua cơ hội để cùng với chị Khúc Minh Thơ và Hội Bảo Tồn Lịch Sử Người Mỹ Gốc Việt vào quốc hội Mỹ để vận động cho những người Việt vô quốc gia tại Phi Luật Tân, Thái Lan và Căm Bốt. Gặp chị, chị trao cho tôi cuốn sách bằng tiếng Anh với tựa đề: "Kiều Chinh, Vietnamese American". Tôi đứng lặng người vì vừa nhận ra được cái thâm sâu đầy cao thượng của người nghệ sĩ khải ái cuả chúng ta. Chị đã vinh danh người Mỹ gốc Việt của chúng ta bằng sự chiến thắng một cuộc đời đầy sóng gió vì nghịch cảnh và vì chiến tranh, và bằng những vinh quang của những thành quả mà người thường có lẽ phải sống tới 5 đời người mới có được. Chị khẳng định rõ ràng, ngắn gọn: "Kiều Chinh, Người Mỹ Gốc Việt"

Còn đối với đất nước Việt Nam thì ra sao? Chị trả lời người viết trong bài phỏng vấn nhân ngày kỷ niệm 50 năm sự nghiệp điện ảnh của chị, cũng ngắn gọn nhưng thiết tha như tiếng kinh cầu:

"Tôi yêu quê hương, coi quê hương và thế giới như một mái nhà và mong ước mọi người sống trong ngôi nhà đó được êm ấm, khoẻ mạnh, và hạnh phúc"



Triều Giang