Năm Sửu Nói chuyện Trâu
Sau khi năm Mậu Tư chấm dứt, th́
đến năm Kỷ Sửu được bàn giao
từ giờ giao thừa bắt đầu giữa đêm
chủ nhựt , 25-01-2009 để cầm tinh
đến 24 giờ đêm thứ bảy 13-02-2010.
Năm Kỷ Sửu này cũng thuộc hành Hỏa
và mạng Tích Lịch Hỏa tức Lửa Sấm
Sét, năm này thuộc Âm, có can Kỷ thuộc
mạng Thổ và có chi Sửu thuộc mạng
Thổ. Căn cứ theo luật thuận hạp
hay khắc kỵ của Ngũ Hành, th́
năm này "Can tương ḥa Chi" Bởi v́,
Can = Thổ và Chi = Thổ. Trường
hợp này, giống như các năm Kỷ Mùi
(1919-1979-2039-2099) có Can Chi tương ḥa
lại có cùng mạng Thổ giống như năm Kỷ
Sửu này hoặc là các năm Nhâm Tư
(1912-1972-2032-2092) có Can Chi tương ḥa đều
có cùng mạng Thủy. V́ vậy, người hay
năm Kỷ Sửu này xem như tổng quát
rất thuận lợi, bởi v́ Trời Đất
được giao ḥa nhau, không khác trong nhà có đôi vợ
chồng sống rất hạnh phúc vậy, cho nên có
thể nói là năm được thăng tiến từ
vật chất đến tinh thần được
vững chắc trong sự nghiệp tương lai.
Được biết năm Sửu vừa qua là
năm
Căn cứ theo Niên Lịch Cổ
Truyền Á Đông xuất hiện được
minh định quảng bá từ năm thứ 61
của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt
đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho
nên chúng ta lấy 2637 + 2009 = 4646, rồi đem chia cho 60
th́ có kết quả Vận Niên Lục Giáp
thứ 77 và số dư 26 năm bắt
buộc rơi vào Vận Niên Lục Giáp thứ78
bắt đầu từ năm 1984 cho đến
năm 2043. Do vậy, năm Kỷ Sửu 2009 này
là năm thứ 26 của Vận Niên Lục Giáp 78.
Năm Sửu tức Trâu cũng là Ngưu,
cho nên trong bàn dân thiên hạ cũng thường nhắc
nhở luôn trong sinh hoạt xả hội hằng ngày,
từ đó mới có những từ ngữ liên quan, xin
trích dẫn như sau :
Sửu là con Trâu đứng
hạng thứ 2 của 12 con vật trong Thập
Nhị Địa Chi, v́ lớn con ḱnh càng, lại c̣n
mang cặp sừng trên đầu nên không thể sánh
bằng con Chuột lanh lợi nhỏ con đến
trước.
Giờ Sửu = là giờ từ 01 giờ đến
đúng 03 giờ sáng hôm sau.
Tháng Sửu = là tháng Chạp của năm
âm lịch.
Hoàng Ngưu = Hỏa
Ngưu = con Ḅ.
Thủy Ngưu =
Con Trâu.
Ngưu Dương = Trâu
Dê.
Ngoài ra, chúng ta c̣n thấy cây cỏ
mang tên Ngưu, xin trích dẫn như sau :
Ngưu hoàng =
Vật vàng vàng mà cứng ở trong cái mật con Ḅ,
người ta dùng để làm thuốc trị phong
đàm.
Hắc Sửu = là
loại cây b́m b́m lông, hột nó đen, dùng để
làm thuốc trị hạ nhiệt.
Ngưu bàng tử =
Hột cây muồng hoè để làm thuốc trị
ghẻ.
Ngưu tất =
Rễ cỏ xước dùng để làm thuốc
trị chứng bịnh đau gân cốt.
Khiên Ngưu =
Loại dây hắc sửu, dùng để làm thuốc
trị hạ nhiệt.v.v.
Đặc biệt, có những Ca Dao,
Tục Ngữ và Thành Ngữ, xin trích dẫn như
sau :
Trâu Ḅ ở với nhau, quen
chuồng quen chỏi ( cây
chắn ngang ở cửa chuồng)
Người ở với nhau lâu, inh
ỏi đủ điều
Trâu kia kén cỏ bờ ao,
Anh kia, không vợ đời nào có con.
Người ta
con trước con sau,
Thân anh không
vợ như cau không buồng.
Cau không buồng
như tuồng cau đực,
Trai không
vợ cực lắm anh ơi!
Người ta
đi đón về đôi,
Thân anh đi
lẻ về loi một ḿnh.
Mất Trâu
th́ lại mua Trâu,
Những quân cướp
nó có giàu hơn ai.
Trâu Ḅ được
ngày phá đổ,
Con cháu
được ngày giổ ông.
Nhịn
thuốc mua Trâu,
Nhịn trầu
mua ruộng.
Muốn giàu,
nuôi Trâu cái,
Muôn lụn
bại, nuôi Bồ Câu... (Ca Dao).
Trâu chậm
uống nước đục.
Trâu ngơ ăn
cỏ héo.
Trâu lành không ai mà
cả (trả giá để mua).
Trâu ngả lắm
kẻ cầm dao.
Trâu đạp
cũng chết, Voi đạp cũng chết.
Trâu hay ác th́ Trâu vạt
sừng.
Trâu bịnh
cũng bằng Ḅ khoẻ.
Trâu toi th́ Ḅ
ngả.
Trâu lấm vẩy
quàng.
Trâu trắng đi
đâu mất mùa đến đấy.
Trai mười
bảy, bẻ găy sừng Trâu.
Thân Trâu lo,
thân Ḅ liệu.
Có ăn có
chọi mới gọi là Trâu.
Thở hơn Trâu
hạ địa (Trâu bịnh lâu ngày).
Mua Trâu vẽ
bóng.
Máu đâu, Trâu
đó.
Không có Trâu,
bắt Ḅ thế, (đi đẩm).
Thà chết
vũng chân Trâu, hơn chết khi dĩa đèn.
Tham bong bóng
bỏ bọng Trâu.
Thật thà lái
Trâu.
Thở như Trâu
Ḅ mới vực (tập kéo xe hay cày bừa)
Trâu Ḅ húc nhau Ruồi
Muổi chết.
Trâu cày, Ngựa
cởi.
Trâu chết
chẳng khỏi rơm.
Trâu chết
mặc Trâu, Ḅ chết mặc Ḅ.
Trâu cột ghét Trâu
ăn.
Trâu đồng nào
ăn cỏ đồng ấy.
Trâu già đâu
nệ dao phay.
Trâu nghiến hàm, Ḅ
bạch thiệt (lưỡi trắng).
Trâu t́m cột,
cột chẳng t́m Trâu.
Dắt Trâu chui
qua ống.
Ngưu tầm Ngưu,
Mă tầm Mă.
Thọ hóa thanh Ngưu.
(Cây
lâu năm hoá thành Trâu xanh)... v.v. (Thành Ngữ).
Miếng trầu
là đầu cậu chuyện,
Con Trâu là
đầu cơ nghiệp... v.v (Tục Ngữ).
Xuyên
qua Ca Dao, Tục Ngữ và Thành Ngữ có liên quan
đến Trâu đă dẫn ở trên kia, chúng ta không
thể ngừng ở đây, mà c̣n thấy rất nhiều
sách viết về những huyền thoại Trâu, xin
trích dẫn để quư bà con đồng hương nhàn
lăm như sau :
Trâu
là
gia súc, loài nhai lại, trên đầu có cặp sừng h́nh
ṿng cung, nó chính là người bạn chân thành của
những nhà nông từ xa xưa, đă từng đổ
mồ hôi, sót con mắt trên luống cày hay bừa trên
thửa ruộng, để cho có những hạt lúa,
nương khoai nuôi dưỡng gia đ́nh tộc Việt
chúng ta. Ngày nay, nhờ cơ giới hóa có máy cày thay Trâu,
nên Trâu bớt cơ cực như ngày xưa.
Đối với thời xưa, dân tộc ḿnh xem Trâu
là một trong ba việc hàng đầu căn bản cho gia
đ́nh và xả hội cần phải sắm, cho nên trong
dân gian thường nhắc nhở như sau :
Tậu
Trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong
ba việc ấy lọ là khó thay!
Ngoài
ra, đất nước chúng ta là nông nghiệp, cho nên trong
dân gian cũng thường nhắc đến Chồng
cày, Vợ cấy, con Trâu đi bừa trên
đồng ruộng. Đó chính là h́nh ảnh thân quen
của những nông gia, có đời sống rất
chất phát, cần cù lại êm đềm và hạnh phúc
trong sự phân công giữa người và Trâu, xin trích
dẫn như sau đây:
Rủ nhau
đi cấy, đi cày,
Bây giờ khó
nhọc, có ngày phong lưu,
Trên đồng
cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày,
vợ cấy, con Trâu đi bừa.
hoặc là :
Trâu ơi, ta
bảo Trâu cày,
Trâu ra ngoài
ruộng, Trâu cày với ta,
Cấy cày
vốn nghiệp nông gia,
Ta đây, Trâu
đấy ai mà quản công,
Bao giờ cây
lúa c̣n bông,
Th́ c̣n ngọn
cỏ ngoài đồng Trâu ăn.
Khi viết
về cái Cày và con Trâu, tôi lại nhớ trong
ngạn ngữ (Proverbe) Pháp cũng có câu như sau
: Mettre la charrue devant les bœufs (Đặt cái cày
trước con Trâu). Ư nói, bất cứ việc ǵ
chúng ta đừng bao giờ làm việc trái đời, ví
như đặt cày cái trước con Trâu, th́ không
thể thực hiện để thành công được.
Trong dân gian ḿnh
có những huyền thoại tương truyền về Trâu,
xin trích dẫn như sau:
Tại sao Trâu
ăn cỏ !
Thuở xưa,
Ngọc Hoàng sai một vị Bồ Tát xuống
trần gian mang theo 1 bao hạt giống lúa và 1 bao cỏ
để phổ độ chúng sanh. Trước khi
xuống trần, Ngọc Hoàng đă tỉ mỉ
căn dặn, đến trần gian phải gieo rắc
bao hạt giống lúa trước để dân có dư
giả mà ăn, c̣n bao cỏ th́ gieo sau để nuôi thú
vật. Nhưng khi vị Bồ Tát đến
trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên măi mê xem mà
quên lời căn dặn của Ngọc Hoàng,
để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt
giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần
trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú
vật ăn không bao giờ hết v́ quá dư thừa và
không làm sao diệt cỏ hết được. C̣n lúa phải
gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có
ăn, bởi v́ bị cỏ mọc lấn áp làm lúa phát
triển chậm hơn cỏ. Bởi lỗi ấy
của vị Bố Tát, làm cho người trần
gian trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ
th́ mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc Hoàng
mới đày vị Bồ Tát này xuống
trần gian hóa thành con Trâu để giúp người
trần gian cày bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng
nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng
phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn
không bao giờ hết cỏ được, nên Trâu
chưa thoát kiếp. Do lư do trên, nên Trâu thường
đi cày bừa giúp nông gia và ăn cỏ.
Trong dân gian
xem Trâu là vị Bồ Tát, có tánh t́nh hiền, nên
ít ăn thịt hơn Ḅ là thế.
Tại sao Trâu chỉ có một hàm Răng !
Cũng
tương truyền thuở xưa rằng : Các
loài thú vật bốn cẳng như : Chó, Mèo, Trâu,
Cọp ...v.v th́ có được hai hàm răng, duy
chỉ có con Ngựa dù cũng có 4 cẳng, nhưng
chỉ có một hàm răng. Bửa nọ, Ngựa
được mời đi dự tiệc, Ngựa nghĩ
rằng ḿnh chỉ có một hàm răng ăn rất
chậm, nên đi hỏi Chó, Mèo, Cọp ... để
mượn hàm răng, th́ Chó, Mèo, Cọp ... cũng
được mời ăn tiệc, chỉ c̣n Trâu
cũng được mời ăn tiệc, nhưng không
muốn đi v́ lười, phần làm việc cực
nhọc nên thân thể ê ẩm, nên không đi dự
tiệc, cho nên Trâu được Ngựa
đến năn nỉ và than thân trách phận v́ số
không có hai hàm răng, rồi hứa chỉ mượn
tạm hàm răng của Trâu đi ăn tiệc xong
sẽ trả lại liền, c̣n đền ơn đáp
nghĩa cho Trâu. Trâu nghe bùi tai, động ḷng nên
gỡ cho Ngựa mượn. Sau khi dự tiệc
xong, Ngựa thấy có hai hàm răng ăn rất mau
và lại ngon miệng, nên động ḷng tham, không giữ
ǵn lời hứa, bèn trốn lánh Trâu để
giựt luôn hàm răng. Một hôm Trâu gặp
được Ngựa đ̣i lại hàm răng và
mắng chửi Ngựa thậm tệ, Ngựa
phóng nước đại chạy trốn mất
dạng, Trâu rượt theo một hồi không
bắt kịp Ngựa, v́ thân thể nặng
nề nên rất chậm chạp. Từ đó, Trâu
dành nuốt hận cho đến ngày nay, chỉ có một
hàm răng, trong khi Ngựa lại có hai hàm răng.
Đó là, nguyên
do Trâu ăn cỏ, chỉ có một hàm răng và cày
bừa giúp nhà nông trồng lúa. Đây là một trong
những tương truyền trong dân gian để răng
đời đáng quư !
Tại saoTrâu
không biết nói tiếng người và có cái sẹo như
nốt ruồi dưới cổ !
Thuở xa
xưa, Trâu cùng nói được tiếng với
người, nhờ vậy người dùng lời nói
để sai khiến Trâu, cho nên bọn mục
đồng (chăn Trâu) không thể dùng roi
để đánh đập Trâu hay không cho Trâu
ăn cỏ đầy đủ, v́ sợ Trâu mét
chủ. Nhờ vậy, người cùng vật quấn quít
và thương mến nhau. Có một gia đ́nh nông dân
nọ, có nuôi một con Trâu và mướn một
cậu bé để chăn Trâu, thời gian sau nó
bỏ bê chăn Trâu, v́ mê lo đánh đáo cùng bọn
chăn Trâu khác, nhưng sợ Trâu đi ăn
lúa, nên nó cột Trâu lại một chỗ không cho
ăn uống, cho nên Trâu bị đói, bụng xếp
ve, để qua mắt chủ, nó lấy mo cau áp vào
bụng Trâu rồi trét bùn bên ngoài. Cứ thế, ngày
ngày nó dẫn Trâu về chuồng, người chủ
thấy bụng Trâu no tṛn th́ hài ḷng và yên bụng
tưởng rằng nó lo cho Trâu cẩn thận chu
đáo, có ngờ đâu Trâu th́ bị đói cả
ngày, không như các ngày vừa qua, chỉ bỏ Trâu
đói vài giờ, cho nên Trâu định mét chủ,
nhưng Trâu bị nó khôn ngoan, lanh lợi dùng lời
lấn áp Trâu, không cho Trâu có dịp nói với
chủ. Sáng họm sau, người chủ vắt Trâu đi
cày, Trâu đi không nổi v́ đói, nên bị chủ
quát : "Mau lên đồ lười". Trâu
trả lời : "Không phải lười v́
đói" Chủ nói :Ngày nào nó cũng cho mầy
ăn một bụng no nê mà đói nỗi ǵ?. Trâu thố
lộ : "Nó chỉ lo mê đánh đáo, rồi nói láo
cho tôi ăn no, no ǵ mà no trong mo cau ngoài đất sét".
Người chủ vội vàng kiểm chứng thấy
sự thật, khi lột mo cau trét bùn dưới bụng Trâu
và đánh cậu bé chăn Trâu một trận nên thân.
Từ đó, ngày nào Trâu cũng được ăn
no và tắm rửa chu đáo. Riêng cậu bé chăn Trâu,
ba bốn ngày hôm sau chỗ bị đánh vẫn c̣n sưng,
cậu bé ngồi khóc trên bờ ruộng, bỗng một
ông lăo hiện ra hỏi han nguyên do bị đánh, cậu bé
tŕnh bày sự thật và ông lăo rút trong người ra
một nén nhang, rồi đốt lên dí vào cổ con Trâu,
làm cho Trâu đau điếng, kêu khan cả cổ,
tiếng nói dần dần biến mất, sau cùng khi nào
muốn nói, Trâu chỉ phát ra được tiếng "nghé...ọ".
Riêng ở chổ bị thương, sau đó trở thành
một cái sẹo như nốt ruồi. Từ đó, Trâu
sanh ra đều không nói được tiếng
người và đều mang cái nốt sẹo ở dưới
cổ. Những huyền thoại về Trâu c̣n
nhiều, nào là :
Trâu nhà, Trâu
rừng, Ngưu Mân (Trâu ngủ), trong Tây Du Kư tác
giả Ngô Thừa Ân nói về Ngưu Ma Vương
đánh với Tề Thiên Đại Thánh cuối cùng
nhờ có Thái Thượng Lăo Quân mới thu phục
được Ngưu Ma Vương dẹp bỏ
được chướng ngại trên đường
thầy Trần Huyền Trang tức Tam Tạng
phụng chỉ vua Đường Thái Tôn sang
nước Thiên Trúc để thỉnh kinh Phật về
truyền bá trong dân gian. Ba bộ kinh của Phật Giáo
là : Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng
gọi chung là Tam Tạng. Trên đường đi xa
xôi ngàn dặm, hành tŕnh gian nan, nguy hiểm v́ có nhiều yêu
quái, nhờ có b học tṛ giỏi the pḥ như sau :
Ø thứ nhứt là
Ø thứ nh́ là Trư Bát Giới, cốt
Heo tu hành lâu năm nên thành người, cũng có phép
không vừa.
Ø thứ ba là Sa tăng, một con quỷ
hung tợn được thầy Tam Tạng
thuyết phục và thâu dụng làm đệ tử.
Mặc dù
thầy Trần Huyền Trang có ba đệ tử tài
năng phép luật cao cường, nhưng khi đến Hoả
Diệm Sơn đành phải chùn bước, v́ trở
ngại núi quá cao lại có phun lửa rực trời,
sức nóng mănh liệt. Muốn vượt qua phải
dập tắt ngọn lửa này, nhưng phải có cây
quạt Ba Tiêu của Ngưu Ma Vương
tức chồng của Bà
*
Ông
Đại Lực Kim Cang hướng Đông.
*
* Ông Thắng Chi Kim Cang hướng
*
Khi đó, Ngưu Ma Vương mới cùng
đường chống đỡ, nên phải chạy
trốn, nhảy lên cao núp trong mây, nhưng cũng không thoát
khỏi được, v́ có các sứ thần của
thượng đế là Na Tra và Lư Thiên Vương
chận đường vây bắt. Cuối cùng Ngưu Ma
Vương mới chịu đầu hàng và quy y
đầu Phật.
Nhân đây, tôi xin trích dẫn Ngài Huyền Trang
như sau : Ngài Huyền Trang tức Hiuan-Trang (có
người nói ngài họ Trần tên Huyền Trang),
sanh năm 602 và chết năm 664, hưởng
thọ 63 tuổi. Năm 13 tuổi ngài xuất
gia học đạo. Năm 20 tuổi thọ
giới cụ túc, lúc bấy giờ nước Tàu có
loạn lạc, măi đến năm 629, ngài
được 27 tuổi, thuộc đời nhà Đường
(618-907) niên hiệu Trinh Quáng năm thứ ba, Ngài
mới sang Ấn Độ thỉnh kinh, phăi qua 100
quốc gia thuộc các nước nhỏ của xứ Ấn
Độ, cho nên có tên Đường Tam Tạng.
Việc đi này, rất nhiều cuộc nguy hiểm trên
đường đi và nhờ phép Phật che
chở, nên Ngài vượt qua các tai nạn và cuối cùng
được các Vua Tây Vực tiếp rước và
giúp đỡ tận t́nh để Ngài tu học các ngôi
đại tự cho thành tài, cuối cùng thỉnh các
tạng kinh sách từ Ấn Độ mang về,
được Vua Thái Tông tiếp rước nồng
hậu. Sau đó, Ngài dịch kinh luận được
trên 1.500 quyển từ Phạn ngữ sang Hán ngữ,
riêng bộ Duy Thức Luận là đặc sắc
nhứt và được người đời
Ngoài ra c̣n có :
Tục đấu (chọi) Trâu: Tục này xưa kia thường được
tổ chức ở một vài nơi như huyện Lập
Thạch, Tỉnh Vĩnh Yên hoặc ở Đ́nh
Bảng, Hà Đông hay ở Đồ Sơn, Kiến
An, cho nên trong dân gian thường truyền tụng
để nhớ ngày đấu Trâu như sau :
Dù
ai bán đâu, buôn đâu,
Mùng mười tháng tám đấu Trâu th́ về.
hoặc là :
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Mùng mười tháng tám nhờ về
đấu Trâu.
Đặc biệt, khi nói đến
mục đồng(chăn Trâu) ngày xưa, không
phải người mục đồng nào cũng nghèo hèn,
thất học hết, tối ngày chân lắm tay bùn cơ
cực suốt một cuộc đời ở cận kề
với Trâu, mà không thể trở thành danh nhân lừng
lẩy. Bằng chứng là trong lịch sử đất
nước chúng ta có hai danh nhân đă từng là mục
đồng. Đó là:
Trong Đại
Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh,
Con quan Thứ Sử ở thành
Khác thường từ thuở c̣n
thơ,
Rủ đoàn mục tử mở
cờ bông lau ...
Đào Duy Từ thuở
nhỏ cũng là mục đồng, con của Đào Tá
Hán làm nghề hát tuồng và Bà Kim Chi là
người hiếu học, nên sau
được Chúa Săi Nguyễn
Phúc Nguyên được phong chức Nha Úy Nội Tán,
tước Lộc Khê Hầu, Quan Quản nội ngoại
quân cơ, Tham lư quốc chánh và Cụ Đào Duy Từ
là người đứng ra tổ chúc đắp xây lũy
Trường Dục ở huyện Phong Lộc và lũy
Định Bắc Trường Thành dọc theo
sông Nhật Lệ tục gọi là Lũy Thầy
Đồng Hới để ngăn chận
hữu hiệu quân Chúa Trịnh.
Viết huyền thoại về Trâu
c̣n dài dài, nếu kể thêm các lịch sử tương
truyền bên Tàu hoặc đi vào văn chương
sách vở th́ không thể kể hết được, cho
nên xin tạm ngưng ở đây, khi có dịp sẽ
nối tiếp.
Trước khi tạm kết thúc bài này, tôi xin trích
dẫn thời gian 10 năm những năm con Trâu
vừa qua và sắp tới có Hành như thế nào?
để cống hiến quư bà con đồng hương
nhàn lăm hoặc xem ḿnh có phải sanh đúng năm Sửu
hay không như dưới đây :
Tên Năm |
Thời Gian |
Hành Ǵ? |
Tân Sửu |
19-02-1901 đến 07-02-1902 |
Thổ |
Quư Sửu |
06-02-1913 đến 25-01-1914 |
Mộc |
Ất Sửu |
25-01-1925 đến 12-02-1926 |
Kim |
Đinh Sửu |
11-02-1937 đến 30-01-1938 |
Thủy |
Kỷ Sửu |
29-01-1949 đến 16-02-1950 |
Hỏa |
Tân Sửu |
15-02-1961 đến 04-02-1962 |
Thổ |
Quư Sửu |
03-02-1973 đến 22-01-1974 |
Mộc |
Ất Sửu |
20-02-1985 đến 08-02-1986 |
Kim |
Đinh Sửu |
07-02-1997 đến 27-01-1998 |
Thủy |
Kỷ Sửu |
26-01-2009 đến 13-02-2010 |
Hỏa |
Và nhân đây, xin trích dẫn các ngày Tết
nguyên đán kể từ năm Tân Măo 2011 đến
năm Quư Măo 2023 để cống hiến quư bà con
đồng hương thưỡng lăm như sau:
- Tết Nhâm Th́n, nhằm thư hai, 23-01-2012
**
- Tết Quư Tỵ, nhằm
chủ nhựt, 10-02-2013 **
- Tết Giáp Ngọ, nhằm
thứ sáu, 31-01-2014 *
- Tết
Ất Mùi, nhằm thứ năm, 19-02-2015*
- Tết Bính Thân, nhằm
thứ hai, 08-02-2016 **
- Tết
- Tết Mậu Tuất, nhằm thứ
sáu, 16-02-2018 *
- Tết Kỷ Hợi, nhằm thứ ba,
05-02-2019 *
- Tết Canh Tư, nhằm thứ bảy,
25-01-2020 *
- Tết Tân Sửu, nhằm thứ sáu,
12-02-2021 *
- Tết Nhâm Dần, nhằm thứ ba,
01-02-2022 **
- Tết Quư Măo, nhằm chủ nhựt,
22-01-2023 *
Kính chúc tất cả gia đ́nh quư bà con đồng
hương năm mới Vạn Sự Cát Tường.
____________________________
Mừng
Xuân Kỷ Sửu 2009