TRÂU TRONG ĐỜI
SỐNG
Nguyễn
Quý Đại
Mùa Xuân ấm áp, cỏ
cây đâm chồi nẩy lộc dưới nắng hanh
vàng, buổi sáng tinh sương mặt trời chưa thức
giấc đã nghe tiếng chim hót líu lo trên những cành cây
xanh lá. Ong bướm bay lượn trong gió xuân thơm ngát
mùi hoa, cảnh vật xinh tươi làm con người có cảm
giác phơi phới yêu đời, hòa nhập với thiên
nhiên. Nhưng ở Âu Châu lễ Giáng sinh và Tết
dương lịch (Tết âm lịch vào ngày 26.01.2009) trong
mùa Đông giá lạnh, , khác bên quê nhà Việt
Quý sửu 1913; Ất sửu 1925; Đinh sửu
1937; Kỷ sửu 1949; Tân sửu 1961;
Quý sửu 1973; Ất sửu 1988; Đinh sửu
1997, Kỷ sửu 2009
Họ hàng nhà trâu trong khoa học
Trâu thuộc bộ nhai lại (Ruminantia)
Giới (Kingdom, regnum) động vật
(Animalia)
Lớp (class) động vật có vú (Mammalia)
Bộ (order) bộ guốc chẵn (Artiodactya)
Họ (Family) trâu, bò có sừng Bovidae
Phân bộ họ bò (Boviae)
Chi (genus) trâu (Bubalus)
Theo tài liệu trâu rừng sống trên Châu lục
là tổ tiên của các loại trâu nhà.Trâu rừng ở Á
châu được chia làm 2 loại: Wild Asiatic Buffalo, Wild Water Buffalo (Bubalus arnee) các loại trâu được
thuần hoá thành trâu nhà: House water buffalo (Bubalus bubalis) Water
Trâu rừng sống từ bán đảo Ấn
Độ đến Trung Hoa, đầu tròn dài từ
240-300 cm, đuôi lông cứng dài 60-90 cm, vai cao từ 150-190cm,
sừng dài nhọn và cong. Trọng lượng từ
800-1200 kilo, lông màu đen, xám hay nâu, có thể sống đến
25 năm, thường sống chung với nhau một bầy
cùng ăn, cùng ngủ bảo vệ lẫn nhau, có những
con trâu đực ”đầu đàn” to con mạnh sừng
dài nhọn chống lại các loại thú dữ khác, (đời
sống, tập tính các loại trâu rừng đều giống
nhau). Trâu cái hàng năm, sinh một con nghé thời gian chửa
đẻ hơn 310 ngày. Hiện nay chỉ còn một số
ít sống ở trên rừng Đông Nam Á: Thái lan, Việt
-Trâu lùn Anoa nhỏ
con ở Đông Nam Á gồm các loại: trâu lùn đồng
bằng Anoa (Bubalus depressicomis) trâu lùn miền núi Anoa (Bubalus
quarlesi); còn các loại trâu lùn Tamarau,Tamaraw, Tamarao, Mindorol (Bubalus mindorensis), những khảo cứu về các loại trâu ở:
Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Tây, Đông Nam Á và Úc Châu
cho thấy quá trình thuần hoá, phối giống khác nhau.
Hình dạng trâu nhà lớn nhỏ theo từng điạ
phương, sừng, màu da cũng khác nhau, trâu nước
(Water buffalo/ Bubalus arnee) hơn 150 triệu con được
thuần hóa trên thế giới. Ở Việt
Trên thế giới quốc gia nuôi trâu nhiều
nhất là Vùng Tây Bắc Ấn độ có nhiều loại.
Hơn 77 triệu con gồm hàng chục giống trâu khác
nhau như: Murrah, Nilli Ravi kundi, Surji, Mehsana, Jafarabadi, Kelabandi,
Sambaipur…Loại trâu Murrah sừng xoắn, có nhiều nơi
trên thế giới nhưng không chịu được
nóng, Người Ấn thờ bò nên phát triển nuôi trâu
để kéo cày, ăn thịt lấy sữa vì sữa trâu
có ít Cholesterin trong lúc sữa bò có đến 3,14mg và nhiều
chất: Kalzium, Eisen, Phosphor và Vitamin A. Hầu hết 90% trâu
sinh sống ở Đông Nam Á Châu
Ở
Trung quốc cũng như
Các Quốc gia Luỡng Hà, Caucacus (Nga) cho tới
vùng Balkan nuôi nhiều loại trâu để lấy sửa
và ăn thịt. Những loại trâu nầy lông da xám
đen, rất ít màu hung đỏ có đốm trắng ở
đầu, chân và đuôi, đôi khi loang trắng ở mình,
sừng dài xoắn uốn cong thành hình lưỡi liềm.Ai
Cập loại trâu thường thấy là: Beheri và Saidi sừng
ngắn hơi cong về phía sau.
Tại Mỹ có loại trâu rừng American bison
hay trâu của dân da Đỏ Indian buffalo (Bision bision) chủng
loại Wisent (Bison bonasus) và Waldbison (Bison bison athabascae) sống
ở Canada đến miền Đông nước Mỹ. Loại
Präriebison(Bison bison bison) ở Mexiko, Rocky Moutains đến
vùng Mississippi loại trâu rừng Bisons 350.000 con, ngày nay tìm thấy
còn ở Nationalparks. Các loại trâu rừng ở Mỹ lông
màu nâu sẫm có chấm trắng, mùa đông lông màu đen và
mọc dày hơn, muà hè thay lông đen nhạt thưa
hơn, đầu con đực dài 380 cm con cái 240cm, thân dài
3,8 m cao 1,95 đuôi dài 90cm, sừng ngắn, nặng hơn
900 kilo, bơi giỏi và chạy nhanh tốc độ 50
Km/H. Có râu dài, phần trên lưng xuống cổ, trên
đầu và hai chân trước nhiều lông dài hơn 50cm và sống thọ 25 năm
Phi Châu
có nhiều loại trâu:
Afrikanische Büffel/ African buffalos (Syncerus caffer)
Schwarzbüffel/
Black buffalo (Syncerus caffer caffer
Rotbüffel/ Red
buffalo (Syncerus caffer nana)
Waldbüffel/ Forest
buffalo (Syncerus caffer nanus)
Steppenbüffel/
Steppe buffalo (Syncerus caffer caffer)
Grasbüffel/ Grass
buffalo (Syncerus caffer brachyceros)
Trâu rừng
Phi châu sống rừng nhiệt đới, rừng thưa
nhiều cỏ. Đầu tròn dài 210-340 cm, đuôi dài 70-1,10
cm, cao từ 100 -170 cm sừng dài nhọn và cong, trọng
lượng 320-1000 Kilo lông màu nâu đen hay nâu đỏ, sống
16 năm nhưng nếu nuôi ở sở thú được
chăm sóc có thể sống tới 26 năm. Trâu đỏ
red buffalo có thể sống trên núi cao 4000m.
Trâu qua thi ca
Con trâu đã xuất hiện trong
kho tàng văn học dân gian: ca dao, đồng dao, tục ngữ,
câu đố, nhiều truyện cổ tích và huyền thoại...
Từ thời
thượng cổ người Việt sống về nông
nghiệp, biết lấy nước sông để canh tác,
những cánh đồng lúa bùn lầy, không thể dùng bò hay
ngựa để cày ruộng, chỉ trâu giúp cho nông dân kéo
cày bừa ở ruộng nước. Vào đầu
năm theo lệ vua làm lễ tế thần nông và cày ruộng
tịch điền, làm lễ xong vua cầm cày, đường
cày tượng trưng mở đầu cho một năm
cày cấy được mùa. Hình luật đời Lý,
đời Trần rất nghiêm minh, ai ăn trộm hay giết
trâu bò bị phạt nặng. Trâu không thể thiếu trong
việc canh tác của nhà nông, trâu là đầu
cơ nghiệp nên, tình cảm qua thi ca con trâu thường
được nhắc đến
Lao xao gà gáy rạng ngày
Vai vác cái cày, tay dắt con trâu
Bước chân xuống cánh đồng sâu
Mắt nhắm mắt mở, đuổi trâu ra cày
Cuộc sống
thay đổi, chúng ta ở hải ngoại làm việc
trong các công ty, khó thấy cảnh con trâu ung dung gặm cỏ
bên bờ ao, nhưng nếu đọc những câu ca dao nói
về cảnh đồng quê gió mát, liên tưởng đến
lỗ chân trâu trên con đường làng bé nhỏ, tiếng
gà gáy ban mai gợi nhớ một chút kỷ niệm khó
quên.
Trâu ơi ta bảo trâu
này
Trâu ra ngoài ruộng trâu
cày với ta
Cấy cày nối
nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản
công
Vốn sẵn có tình
thương đối với gia súc, người nông phu
đã nói với con trâu khi dắt trâu ra đồng
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn cho béo trâu cày cho sâu
Ở đời khôn khéo chi đâu
Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần
Người nông dân đã đặt địa vị
con trâu ngang với sinh hoạt trên cánh đồng, xưa và
nay con trâu là một tài sản trong gia đình nông dân nghèo,
Trên đồng
cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày vợ
cấy, con trâu đi bừa
Rạng ngày vác cuốc ra đồng
Tay cầm mồi
lửa, tay dòng thừng trâu
Ruộng dầm
nước cỏ bùn sâu
Suốt ngày
cùng với con trâu cày bừa
Việc làm chẳng
quản nắng mưa
Cơm ăn
đắp đổi muối dưa tháng ngày.
Con trâu còn gắn liền
với tuổi thơ của trẻ em nông thôn tắm trâu,
cưỡi trâu, ra đến
miền quê chúng ta thấy hình ảnh quen thuộc của những
chú bé mục đồng chăn trâu “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm
chứ! Đầu
đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như
roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tai nghe chim
hót trong chòm cây, mắt trông bướm lưọn trên đám
cỏ …"qua ca dao còn có
chuyện thằng Bờm và thằng
Cuội chăn trâu
Thằng Cuội ngồi gốc cây
đa
Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ bên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi
chơi cầu vồng
Thằng Bườm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu…
Huyền thoại về trâu: "Thuở
xa xưa Thượng Đế phái một vị tiên
đem hai bao hạt giống xuống trần: một bao
đựng hạt giống ngũ cốc để nuôi
loài người, một bao đựng hạt giống cỏ
để nuôi súc vật và dặn phải gieo hạt
ngũ cốc trước, sau mới gieo hạt cỏ. Vị
tiên lơ đãng nhầm lẫn đem hạt giống cỏ
gieo trước... Cỏ mọc nhiều lấn hết cả
đất, làm cho ngũ cốc gieo sau bị hạn chế.
Hạ giới thiếu thực phẩm, bị đói phải
vất vả nhổ cỏ. Tiếng kêu than thấu trời,
Thượng Đế nổi giận bèn biến vị
tiên lơ đãng thành con trâu, đày xuống trần để
gặm cỏ và giúp nhân loại canh tác ngũ cốc. Vì thế,
con trâu ta suốt ngày nhai hoài và hì hục kéo cày để chuộc
tội
chuyện Ngưu
Lang Chức Nữ, với chiếc cầu Ô Thước
(Ô là con quạ, Thước là con chim Khách). Ngưu Lang là vị
thần chăn trâu của Thượng đế vì say mê một
tiên nữ dệt vải tên là Chức Nữ, nên bỏ bê
việc chăn trâu. Chức Nữ cũng vì mê tiếng sáo
của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải.
Ngọc Hoàng giận, bắt cả hai phải ở cách xa
nhau, người đầu sông Ngân kẻ cuối sông. Sau
đó, Ngọc Hoàng thương tình nên cho hai người mỗi
năm được gặp nhau một lần trên cầu
ÔThước vào đêm
mùng 7 tháng Bảy. Lúc chia tay nhau cả hai đều khóc,
nước mắt của họ rơi xuống trần
gian thành cơn mưa nhẹ gọi là mưa Ngâu
Mồng bảy tháng bảy mưa Ngâu
Con trời lấy chú chăn trâu cũng buồn
Người
nông thân mật giúp đỡ lẫn nhau, bà con hàng xóm trở
thành gắn bó, liên kết chặt chẽ với nhau, họ
cảm thấy cuộc sống thoải mái, thân
thương với môi trường sinh hoạt đầy
ắp tình người, tình xóm giềng, nghĩa đồng
hương. Đời sống nông nghiệp quanh năm vất
vả, nên nhà nông thường ăn Tết lâu hơn thành
thị, họ chọn tháng tư để đi mua bò trâu
lo cho việc cày cấy
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà
Tháng ba thì đậu đã già
Ta đi ta hái về nhà phơi khô
Tháng tư đi tậu trâu bò
Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm….
Dân tộc
thiểu số có những lễ hội đâm trâu tế
Thần, Tết trâu, xem trâu là Thần linh... Đồ
Sơn bãi biển đẹp nổi tiếng về cờ
bạc, cũng có ngày hội truyền thống chọi trâu
xem trích dẫn (1) để
tham khảo.
Dù ai buôn đâu bán đâu
Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mồng mười tháng tám trở về chọi trâu
Tục ngữ
cũng thường ví von về trâu, với những lợi
ích thực tế như: muốn giàu nuôi trâu cái, muốn lụn
bại nuôi bồ câu. Hàng năm trâu nái đẻ một con
nghé có thể bán hay nuôi lớn để cày bừa, loại
chim bồ câu chỉ ăn hại (luá thóc đi đâu bồ
câu theo đó), ngày nay người ta dùng biểu tượng
con bồ câu cho hoà bình vì nơi nào giàu có no ấm dư thừa
lúa gạo thì có bồ câu. Những con trâu dáng đẹp
như: Trâu hoa tai, bò gai sừng, hoặc trâu chóp tóc, bò mũi
mấu… ám chỉ những con trâu khỏe thì giá bán càng cao.
Thời nay những người lớn tuổi thích về
quê lấy vợ trẻ, người ta gọi trâu già
thích cỏ non, hay trong những
liên quan xã hội như: trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết,
hay sự ganh ghét lẫn nhau, trâu buộc ghét trâu ăn; trâu
chậm uống nước đục, trâu ngờ ăn cỏ
béo; trâu cổ cò, bò cổ giải; trâu chết mặc trâu,
bò chết mặc bò, củ tỏi giắt lưng; trâu dắt
ra, bò dắt vào; trâu trắng đi đâu mất mùa đến
đấy; trâu đi tìm cọc, cọc chẳng tìm trâu;
trâu ho bằng bò rống; trâu khoẻ chẳng lo cày trưa;
bụng trâu làm sao, bụng bò làm vậy; trâu lành không ai mặc
cả, trâu ngã khối kẻ cầm dao; trâu chết để
da, người chết để tiếng v & vv
Theo truyền thuyết thì trâu biểu
hiệu sự sống lâu. Lão Tử (Lao Tsu) soạn Đạo
Đức Kinh sinh vào thế kỷ thứ 6 trước CN
(thời Chiến Quốc), Lão Tử giáo chủ phái “thanh tịnh
vô vi” thường cưỡi con “thanh ngưu” đi ngao du
khắp thiên hạ, khi về già nhận thấy chính sự
của vương quốc đang tan rã đã cưỡi
trâu xanh đi về hướng Tây qua đồi núi đến
nước Tần và từ đó mất dạng. Tôn Tẩn
là cháu của Tôn Tử (Sun Tzu) đời Xuân Thu (722-481
trước CN) Tôn Tẩn
và Bàng Quyên là bạn đồng môn cùng học binh pháp, Bàng
Quyên xuống núi trước được Huệ
Vương nước Ngụy trọng dụng, Tôn Tẩn
đến sau Bàng Quyên sợ Tôn Tẩn hơn mình tìm cách hãm
hại… sau đó Tôn Tẩn trốn qua nước Tề
được trọng dụng làm quân sư cho Điền
Kỵ. Trả được thù xưa, trong trận
thư hùng ở Mã Lăng. Quân Bàng Quyên bị tên bắn
trong đêm tối thua bỏ chạy Bàng Quyên phải tự
tử, quân sư Tôn Tẩn thường ngồi xe, còn có
giai thoại ông cưỡi trâu ra trận (sử ký Tư Mã
Thiên trang 229 viết Tôn Tẩn bị Bàng Quyên ghét bỏ vì sợ
Tôn Tẩn hơn mình mượn pháp luật trị tội
chặt chân và chạm vào mặt.. nhưng truyện Xuân Thu
Oanh Liệt thì viết khác?) Có
thể cưỡi trâu an toàn hơn ngựa? Trần Tế
Xương với cái thú cưỡi trâu:
Được tiền mua rượu
Rượu xong cưỡi trâu
Cưỡi trâu thế mà vững
Có té cũng không đau
Gia Cát Lượng
Khổng Minh (181-234 trước CN) trong binh pháp dùng “mộc
ngưu lưu mã” chế ra những con trâu gỗ, ngựa
máy (?). Khi gắn cái lưỡi vào thì trâu gỗ cử
động để vận chuyển lương thực
trong thời gian đánh với Tư Mã Ý. Khi Tào Tháo vượt
qua sông vị bỗng bị Mã Siêu đuổi theo. Tháo bị
nguy kịch dù tướng Hứa Chử hết lòng bảo
vệ. Đứng trên núi viên tri huyện Vi Nam là Đinh Phỉ
bèn sai lính mở cổng trại thả hết trâu ra. Quân
Mã Siêu đua nhau cướp trâu, quên việc đuổi
đánh, thành ra Tào Tháo được trâu thế mạng và
thoát nạn.
Điền Đan danh tướng
nước Tề, bị quân Yên vây thành, nhờ thu trong
thành được hơn một nghìn con trâu, lấy vải
quấn lên mình trâu, vẽ vằn rồng ngũ sắc, buộc
mũi nhọn ở đầu sừng, cột cỏ khô,
bông lau tẩm dầu mỡ vào đuôi như một cái chổi
lớn. Sai dân chúng đào thành mấy chục chỗ làm
hang, ban đêm dồn trâu chui qua hang ra ngoài thành rồi đốt
những bó cỏ sau đuôi trâu. Đuôi trâu cháy nóng, trâu nổi
điên xông vào quân Yên, cùng năm ngàn binh sĩ phá trại giặc,
quân Yên thua trận…
Trong lịch sử Đinh Bộ Lĩnh (924-979) lúc nhỏ
chăn trâu, dùng cờ lau tập trận lớn lên có công dẹp
loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước
năm 968 lên ngôi Hoàng Đế. Đóng đô
tại Hoa Lư, đặt quốc hiệu là Đại Cồ
Việt.
Có ông Bộ
Lĩnh họ Đinh
Con quan thứ
sử ở thành Hoa Lư
Khác thường
từ thuở còn thơ
Rủ đoàn
mục tử mở cờ hoa lau…
Đào Duy Từ
(1572-1834) bị cấm thi nên bỏ Chúa Trịnh vào Nam giai
đoạn đầu nghèo khó, phải chăn trâu cho phú hộ
Trịnh Long ở Hoài Nhơn, Bình Định sau được
Trần Hoài Đức biết ông giỏi chữ mời dạy
cho các con, và gả cho con gái. Đào Duy Từ, trong thời kỳ
chăn trâu đã viết “Ngoạ Long Cương vấn”.
Sau đó được chúa Nguyễn trọng dụng, có công
xây thành đắp lũy, Lũy Trường Dục và
lũy Nhật Lệ ( tức lũy Thầy để chống
lại chúa Trịnh Đàng ngoài.
Trạng Quỳnh
cho đấu trâu với Tàu, thắng về mưu trí, trâu
Tàu to hung dữ nhưng phải chạy thua trước một
con trâu nghé. Ông đồ Nguyễn Văn Lạc (1842-1915) thời
Pháp chiếm Việt Nam, nhìn thấy giới Sĩ phu thiếu
tinh thần yêu nước, cúi đầu làm nô lệ cho bọn
thực dân, nên ông đã vịnh bài con trâu năm 1862. Ngày nay
theo dư luận, báo chí trong và ngoài nước, đáng
trách đảng CSVN để mất lãnh hải (Trường
sa, Hoàng sa) lãnh thổ (Bản Giốc, Ải Nam Quan…) mà tiền
nhân của chúng ta đã hy sinh xương máu để bảo
vệ !
Mài sừng cho
lắm cũng là trâu
Ngẫm lại
mà xem thật lớn đầu
Trong bụng
lam nham ba lá sách
Ngoài cằm
lém dém một hàm râu
Mắc mưu
đốt đít tơi bời chạy
Làm lễ bôi
chuông nhớn nhác sầu (1)
Nghé ngọ già
đời quen nghé ngọ
Năm dây
đàn gảy biết chi đâu!
(1) Đời xưa lấy máu trâu bôi vào chuông mới
đúc cho khỏi nứt
Hình ảnh con trâu qua thi ca bình dân,
nhưng trong thi ca hiện đại qua bài “chiều hôm nhớ
nhà” của bà Huyện Thanh Quan, không có hình con trâu nhưng qua
thơ làm người ta liên tưởng đến con trâu
và chú mục đồng đang cưỡi trâu về
Gác mái ngư ông
về viễn phố
Gõ sừng mục
tử lại cô thôn
Nguyễn Khuyến có hai câu thơ
tuyệt hay tả cảnh trưa hè ở thôn quê con trâu già
trời nắng phải nấp dưới bụi cây hay
bờ chuối, con chó ở ven ao
Trâu già
nấp bụi phì hơi nắng
Chó nhỏ
ven ao sủa tiếng người
Trâu trong tranh vẽ, phim. Tranh chăn Trâu Đại
Thừa.(Munual of Zen buddhism) của tác giả Daisetz Teitaro
Suzuki minh hoạ, 10 bức tranh chăn trâu “Thập mục
ngưu đồ” nói lên việc chăn trâu cho sự điều
tâm. Trên đồng tiền Đông Dương thời thuộc
điạ Pháp, cũng như tiền của Ngân hàng Quốc
Gia Việt
Ở Việt
Có vài ba địa
danh mang tên trâu như Bến Nghé (Sài Gòn xưa) Hà Nội có
sông Kim ngưu, núi Cấm (Bảy núi) thuộc xã An Hào có miếu
thờ “trâu dũng nghiã”…Hình con trâu chạm khắc khá phổ
biến ở những đình, miếu cổ. Chuyện vui
thời đại “làm thịt trâu”. Người em từ
nước ngoài về thăm chị ở vùng quê, buổi
sáng người chị đi chợ đưá con út đòi
đi theo, người chị bảo “con ở nhà với cậu,
mẹ đi chợ về thịt trâu cho con ăn”. Người
em ngạc nhiên người chị hứa mà không làm? thắc
mắc hỏi: tại sao chị nói dối với cháu làm
thịt trâu, trẻ con cần dạy cho nó thành thật có
nói có, không nói không …người chị không ngần ngại
trả lời “xã hội bây giờ từ trên xuống
dưới đều nói láo... mình hứa làm thịt trâu
cho vui với trẻ con là chuyện nhỏ, hơi đâu cậu
bận lòng”
Lợi ích của trâu
Năm 1840 nhà bác học
Đức Justus Liebig áp dụng hoá hữu cơ vào nông nghiệp
và sinh lý học là một cuộc cách mạng cho nông nghiệp,
ông là người khai sinh ra phân hóa học cho nông nghiệp ở
Âu châu, nhưng nông dân Việt Nam nuôi trâu lấy lá cây bỏ
vào chuồng làm phân bón ruộng rất tốt. Những quốc
gia Âu Châu không ăn thịt hay uống sữa trâu, nhưng
các quốc gia khác dùng trâu trong nghề nông, kéo xe kéo gỗ. uống
sữa, và nuôi trâu để ăn thịt. Sừng trâu làm
thủ công nghệ như: lược, tù và, cán dao, cúc áo….da
trâu để bịt trống, làm giày, da trâu nấu thành a
dao “ngưu dao ẩm” ngâm trong dung dịch vôi để quét
tường hay pha với bột màu vẽ tranh không bi lem
màu. Nghề Đông y dùng răng trâu “ngư xỉ”, nước
dãi trâu “ngưu khẩu tần”, sỏi mật, sạn mật
của trâu “ngưu hoàng” sao chế làm những vị thuốc
để trị bệnh. Bác sĩ người Anh Edward
Jener thí nghiệm đầu tiên năm 1796 cấy vaccin trên
trâu thành công để chống bệnh đậu mùa.
Những quốc gia văn minh phát triển về
khoa học kỹ thuật, ngườì ta sản xuất máy cày, máy xới,
máy bơm nước giúp cho ngành nông nghiệp đỡ vất
vả và sản xuất lúa gạo nhiều hơn, ngược
lại các quốc gia chưa phát triển trong đó có Việt
Nam, sau 34 năm thống nhất đất nước nhờ
“đỉnh cao trí tuệ”, vẫn còn sử dụng trâu
trong việc canh tác. Năm Mậu Tý con chuột láu lỉnh,
không những gặm nhấm thực phẩm của con
người, mà còn ăn đến cả tiền bạc,
đất đai làm cho thị trường tài chánh khủng
hoảng, kinh tế suy thoái để đời sống
dân nghèo thêm gian nan, khốn khổ..
Năm Kỷ Sửu 2009, con trâu ăn cỏ dù
chậm chạp nhưng sức khỏe tốt làm việc
siêng năng, sẽ giúp con người vượt qua khó
khăn, phục hồi kinh tế mang lại yên vui.
Với thời gian, tất cả đã thay
đổi, khác xưa nhưng hình ảnh con trâu thì bao
giờ cũng vậy.. Chúng ta nên quên đi những
buồn phiền năm cũ, cùng đón mừng một muà
Xuân hy vọng nhiều thành công và tiến triển tốt
đẹp hơn năm qua. Kính chúc gia đình độc giả
luôn bình an và may mắn
Tài liệu tham khảo
Das Tierlexikon và Natur Lexikon
Sử Ký Tư Mã Thiên
Xem tướng 12 con giáp của Vũ ngọc
Khánh và Trần Mạnh Thường
Tục Ngữ Ca dao Việt
Giai thoại làng Nho của Lãng Nhân
Tham khảo thêm
(1)Theo hương sử, vào cuối
thế kỷ thứ II trước Công nguyên, quân nhà Hán tiến
đánh nước Nam Việt do Triệu Đà trị vì.
Nhà Triệu tan vỡ. Tướng Lữ Gia rất tài giỏi
đành lòng rút chạy khỏi kinh đô Phiên Ngung (Quảng
Đông-Trung Quốc) về trụ lại ở núi Long
Động Lập Thạch để tìm cơ hội chống
lại quân nhà Hán. Dân chúng quanh vùng Long Động có cả
người Bạch Lưu cùng tướng Lữ Gia
đánh cho quân nhà Hán phải thất điên bát đảo
nhiều trận. Cuối cùng chúng phải rút về. Cứ
mỗi lần thắng trận, tướng Lữ Gia
thường cho mổ trâu để khao quân sĩ và dân
làng. Trước khi ăn khao, ông ra lệnh tổ chức
trò “đấu ngưu”, chúng ta quen gọi là chọi trâu. Cuộc
chọi trâu đầu tiên trong lịch sử được
ghi nhận trong hương ước cũ bằng chữ
Hán Nôm là vào ngày 17 tháng Giêng năm Tân Hợi (111) cách nay gần
1900 năm….
Theo truyền thuyết và thần
tích thì lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn là lễ
hội cầu thịnh vượng và hạnh phúc cho
người dân địa phương có từ thế kỷ
thứ 18. Một vùng đất gồm những cư dân
nhiều nơi về đây khẩn hoang, sinh cơ lập
nghiệp Các cụ già trong làng kể lại, cứ vào tháng
tám, khi lúa ngoài đồng vào thì con gái, ngư dân cũng vừa
kết thúc mùa cá, thì người dân Đồ Sơn bắt
đầu chuẩn bị cho lễ hội chọi trâu. Lễ
hội chọi trâu cũng như nhiều lễ hội
khác có hai phần, phần lễ và phần hội đan
xen. Phần lễ vẫn giữ nguyên những nghi thức
truyền thống với các nghi lễ trang trọng, mở
đầu là lễ tế thần Điểm Tước,
sau đó là lễ rước kiệu bát cống, long
đình cờ thần bay phấp phới, rộn rã trong tiếng
nhạc bát âm dẫn trâu đi trình thành hoàng
Kết thúc lễ hội chọi
trâu con thắng làm một cuộc rước giải về
đình làm lễ tế thần. Tất cả mọi
người dân đều theo, tập tục của từng
địa phương, các trâu tham gia chọi, dù thắng,
dù thua, đều phải giết thịt. Lấy một
bát tiết cùng một ít lông của trâu (mao huyết) để
cúng thần, sau đó đổ xuống ao để tiễn
thần. Mọi người cùng ăn chúc phúc
Nguyễn Quý Đại
|