Tản Mạn
Năm Sửu Về Chuyện Trâu
Trong
âm lịch thì người ta dùng phương pháp thập
nhị chi, hay 12 con giáp để tính chu
kỳ cho năm. Sau năm Tí của 2008 thì
đến năm Sửu 2009. Do đó năm mới
sẽ là năm Kỷ Sửu, tức năm con trâu. Trong các
loài gia súc gần gũi với nếp
sống sinh kế của xã hội đồng quê Việt
tranh Đông Hồ
Trâu là biểu tượng trong
văn hóa:
Trong
nguồn kho tàng văn hóa nghệ thuật còn có mười
bức tranh trâu được gọi là "Thập
mục ngưu đồ", vẽ con trâu và những chú
mục đồng, mô tả thứ tự quá trình diễn
biến trong tâm thức của người vận dụng
sự hành thiền trong cuộc sống. Thực
vậy, Thập mục ngưu đồ là mười
bức họa chăn trâu nổi tiếng trong thiền
tông, tương ứng với quá trình hành đạo
của một người phát nguyện đạt đích
điểm giác ngộ. Mười
bức tranh này có thể xem là biểu tượng rõ nét
nhất khi trình bày những tinh hoa của phái phật giáo đại
thừa.
Hội họa nghệ thuật về trâu
Đó là trên phương diện hội
họa có sự đóng góp của loài trâu cho nét văn hóa. Trong văn học hay phim ảnh nghệ
thuật, hình ảnh của trâu bàng bạc trong vô số tác
phẩm, đơn cử ví dụ như:
Trong
tác phẩm Mùa Len Trâu trong tập truyện nổi tiếng
Hương Rừng Cà Mau của nhà văn Sơn
Trong lãnh vực điện ảnh,
cuốn phim này đề cập về khía cạnh
đồng quê Việt
Nói về trâu, một loài gia súc rất quan
trọng trong đời sống người dân quê ở
một số nước thuộc vùng châu Á, đặc
biệt là tại quê hương ta. Chúng cho sức kéo cày nặng
nhọc, trâu còn cung cấp thịt và sữa. Con trâu
vốn gắn liền với tuổi thơ của
trẻ em tại nông thôn qua hình ảnh của những chú
bé mục đồng, những sinh hoạt chăn trâu hay
len trâu thì rất gần gũi, vui đùa với trâu,
tắm trâu, cỡi trên lưng trâu, thả diều, bên
lũy tre đầu làng, bên những vựa lúa chín vàng,...
Trong sự diễn dịch bói toán hay trong nếp dân sinh
người ta thường cho là người sinh vào năm
con trâu thì chịu khó làm việc cực nhọc, chăm
chỉ. Về sức mạnh thì lại nói là
“mạnh như trâu”.
Trâu đầm mình trong nước
Về âm nhạc, hình ảnh con trâu cũng
được gói ghém qua nét nhạc mô tả qua nét phong hóa
hay về sắc thái nông thôn dân dã. Nói về con trâu trong âm nhạc, nhạc
sĩ Trần Quang Hải viết trong bài "Đầu
Năm Nói Chuyện Thú Vật Trong Âm Nhạc" khi
đề cập đến nhạc cụ như chiêng:
"Chiêng là một nhạc khí
phổ thông khắp Đông Nam Á. Người ta tìm thấy
sinh hoạt chiêng cồng tại nhiều nước
như Mã Lai Á, Nam Dương, Phi Luật Tân, Miến
Điện, Thái Lan, Căm Pu Chia, Việt Nam, Lào. Tại
Việt Nam, chiêng có rất nhiều, phong phú, đa dạng
được kiểm chứng qua nhiều sắc tộc
: Mường, Hrê, Ê đê, Mnông, Gia Rai, Triêng, Xê Đăng,
Bahnar, Chăm, Mạ, Stiêng, Kơ Ho.
Thông thường, chiêng là
một nhạc khí dùng trong ghi lễ trọng thể. Chiêng còn có một giá trị của vật
chất khá cao. Người Mường
cho con gái chiêng làm của hồi môn có giá trị khi về
nhà chồng. Có những bộ chiêng quý của
người A Êđê được
đồng bào trao đổi với nhau trị giá bằng
một con voi hay hàng chục con trâu. Người
Gia Rai sử dụng các dàn chiêng khác nhau trong những
trường hợp khác nhau. Dàn chiêng Trum
dùng trong lễ đâm trâu. Dàn M'nhum dùng trong các lễ
Tết vui, có uống rượu."
Theo học giả
Đào Duy Anh viết trong "Việt Nam Văn Hóa Sử
Cương", con trâu mang một nét văn hóa đồng
quê bình dị, hay trong thôn xóm mộc mạc:
"Người nhà quê khi làm việc
hoặc khi vui chơi hay hát lắm. Đứa trẻ
chăn trâu, buổi chiều cho trâu về, hoặc cỡi
trên cổ, hoặc nằm trên lưng trâu, nhẹ nhàng
cất tiếng hát rồi năm mười đứa
khác cùng họa theo. Những đàn ông,
đàn bà cấy lúa, cắt lúa, làm cỏ hay tát nước
ở dươí trăng hoặc ban đêm đập lúa,
giã gạo, cũng theo nhịp nhàng tay
chân mà hát để quên mệt".
Trong bài hát của thiếu
nhi như Cánh Đồng Tuổi Thơ
của nhạc sĩ Lư Nhất Vũ qua lời ca về
đồng lúa và con trâu.
"Em đi theo ba em ra đồng thăm
lúa chín
Lạc gió lang thang giòng
cây xanh
Đồng xanh thơm
ngát cành rung rinh
Má em qua cầu tre
Em thương yêu quê em
Má thương yêu cánh đồng thơm lúa mới
Đàn sáo líu lo trèo ban mai
Chiều xuống tắm
sông đùa vui
Em đem cơm cho ba khi
trời chưa đứng bóng
Ngồi dưới áng mây
trời bay ngang
Còn con trâu nghé thì lang thang
Cỏ non tha hồ ăn
Đêm trăng thu mênh mông
sương trời lung linh mái chèo khua sông nước
Đời má với ba còn gian nan
Thì có các con cần ngoan..."
Trong
bài hát Con Đường Việt Nam, tác phẩm chung
của hai nhạc sĩ Anh Bằng và Trúc Hồ nói về
khung cảnh miền quê Việt Nam có bóng dáng con trâu gặp
cỏ đường chiều, một vài em bé vui chơi
thả diều,… Bản nhạc tả cả một
bầu trời quê hương Việt
"Nhớ xưa con đi học
Đường quê biên biệt màu nắng
Bướm bay như mây vàng
Dập dồn vui lây xóm làng
Nhớ hoa bưởi sau nhà
Bóng tre đưa la đà
Tiếng ve kêu trưa hè
Thành tiếng quê hương đậm
đà
Đã bao năm rồi đó
Thôi không còn nữa
Bóng dáng con trâu
Gặp cỏ đường chiều
Một vài em bé
Vui chơi thả diều
Có tiếng ai ca
Đưa duyên tình tứ
Đêm trăng hò lớ..."
Phạm Duy thường
dùng hình ảnh con trâu trong tác phẩm của ông, như trong
bài Bình Ca:
"Này em con trâu già
Nhiều năm trâu vất vả
Cùng với bác xã nơi đồng quê
Này em con trâu già
Nằm chơi trâu nhai cỏ
Nhìn những chiếc máy đang cầy
bừa.
Trâu đừng buồn vì máy cầy
nghe."
Hình ảnh em bé quê
Trong bài hát rất
phổ thông được sáng tác khoảng 1953 là bài Em Bé
Quê, hình ảnh con trâu và em bé mục đồng thật
đậm nét quê hương:
"Ai bảo chăn trâu là
khổ
Chăn trâu sướng
lắm chứ
Ngồi mình trâu, phất
ngọn cờ lau
Và miệng hát nghêu ngao
Vui thú không quên học
đâu
Nằm đồi non gió mát
Cất tiếng theo
tiếng lúa đang reo"
Trong lịch sử Việt Nam, một
vị vua xuất thân từ hình ảnh chú bé mục
đồng chính là Đinh Bộ Lĩnh, hay vua Đinh Tiên Hoàng
(924–979), là vị hoàng đế sáng lập nên triều
đại nhà Đinh trong lịch sử Việt Nam. Theo
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì ngài mồ côi cha
từ tấm bé, nên thuở hàn vi rất khổ sở
phải làm mục đồng chăn trâu ngoài đồng
áng. Cha ngài là Đinh Công Trứ, nha tướng của
Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử
Hoan Châu. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh
theo mẹ về quê ở, nương nhờ người
chú ruột là Đinh Dự. Từ bé Đinh Bộ Lĩnh
đã tỏ ra là người có khả năng chỉ huy
thao lược, ở giai đoạn tuổi thơ ngài
cùng các bạn chăn trâu lấy bông lau làm cờ bày
trận đánh nhau. Trận chiến Cờ Lau của
tuổi thơ làm rạng danh sử sách, chính những chú
trâu của những bé mục đồng đã là phương
tiện giúp cho đoàn quân thiếu nhi ấy huấn
luyện trận mạc để rồi sau này khôn lớn
khi trưởng thành, ngài cùng các bạn như Đinh
Điền, Nguyễn Bạc, Lưu Cơ và Trịnh Tú,...
đã tạo nên sự nghiệp hiển hách là thống
nhất sơn hà, dẹp loạn 12 sứ quân lên ngôi Hoàng
đế. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế
đặt nền móng sáng lập nhà nước theo mô
thức tiêu biểu cho sự lãnh đạo trung ương
tập quyền đầu tiên ở Việt Nam, lấy
quốc hiệu là Đại Cồ Việt.
Ruộng nương trâu cày
Nguồn
gốc của loài trâu:
Quê hương chính của loài trâu là vùng Nam
Á và vùng Đông Nam Á. Trâu nuôi khi trưởng thành thường nặng khoảng từ
250 đến 500 kg. Loài trâu rừng hoang dã lớn hơn
thế rất nhiều, con cái có thể nặng 800 kg, con
đực lên tới 1.2 tấn, và cao tới khoảng 1.8
m. Các nhà khoa học chia loài trâu làm 3 giống như sau :
1/ Giống trâu hoang dã châu Á, còn gọi là
arni, được xếp vào giống có nguy cơ
tuyệt chủng, chỉ một số rất ít
được tìm thấy dưới chân rặng Hy mã
lạp sơn. Một số ít khác được bảo
tồn trong vườn quốc gia Hukuang, Miến
Điện. Vùng Đông nam Á, kể cả dãy Trường
Sơn có khoảng chừng 50 con.
2/ Giống trâu sông (river buffalo), có 50
nhiễm sắc thể, sống ở độ cao 2.800 mét
ở Nepal và vùng Nam Á.
3/ Giống trâu đầm lầy (swamp
buffalo), có 48 nhiễm sắc thể, còn gọi là carabao, được nuôi nhiều ở
nước Phi và vùng Đông Nam Á. Giống carabao nầy còn
là con vật biểu tượng quốc gia của Phi
Luật Tân.
Năm 2007 vừa qua, các nhà khoa học Phi
cho biết đã thành công ghép (clone) được giống
trâu vô tính đầu tiên.
Đầu năm 2008, họ lại bắt
đầu lại tạo một giống trâu siêu chủng
cho rất nhiều sữa, đặt tên là Glory,
đặt theo tên của bà tổng thống Gloria Maccapagal
Arroyo.
Tại Ấn Độ có giống trâu
Murrah được tiếng cho nhiều sữa nhất
thế giới. Trâu Murrah có sừng xoắn khác với trâu
thường có sừng vòng cung. Mỗi năm một con Murrah
có thể cho đến 3000 lít sữa. Ấn độ
sản xuất 30 triệu tấn sữa trâu hàng năm.
Phần còn lại của thế giới chỉ bằng
một nửa số lượng ấy. Ấn Độ
cũng đã lai tạo được một giống trâu
siêu chủng đặt tên là Nili-Ravi.
Trâu sữa Murrah
Trâu cho
sữa:
Tại Trung Quốc, kỹ nghệ chăn
nuôi nông phẩm đã biến trâu cày thành trâu sữa, vì
sữa trâu có giá trị dinh dưỡng rất cao. Các nhà
chăn nuôi Trung Quốc đã nỗ lực vào những công
trình nghiên cứu hầu tạo đàn trâu cày khoảng 20
triệu con dư ra sau khi nước này cơ giới hóa
nông nghiệp, trâu cày giờ đây được biến
thành trâu sữa. Phương pháp này được thực
hiện bằng cách cấy bào thai trâu sữa có phẩm
chất tốt vào bụng trâu cày cái.
Viện nghiên cứu trâu của Đại
học Canh Nông Quảng Tây, nơi được coi là
một "thung lũng trâu" của xứ Tàu, thành công
dùng kỹ thuật ghép giống cho ra đàn trâu thật
nhanh và tốt nhất hiện nay trên thế giới.
Họ cho biết kết quả là giá trị dinh
dưỡng trong sữa của đàn trâu sinh ra từ
ống nghiệm (do cloning process) cao gấp 1.8 lần so
với sữa bò với mùi vị thơm ngon. Điều
quan trọng hơn là kỹ thuật cloning tạo do
việc cấy ghép bào thai không có vấn đề
chuyển gene nên luôn bảo vệ mức an toàn về
thực phẩm.
Người dân nông thôn vốn quen thuộc
với sữa trâu, và trâu sữa cho loại sữa tốt
hơn sữa của dê, bò hay trừu, phẩm chất dinh
dưỡng và ý thích của người tiêu thụ là yêu
chuộng hơn sữa bò hiện nay.
Trong quá khứ thì trâu Murrah Ấn
Độ và trâu Niri-Raphi của Pakistan là những giống
trâu sữa tốt nhất thế giới. Trung Quốc
đã du nhập 55 con trâu Murrah và 50 con trâu Niri-Raphi. Trải
qua nhiều năm tìm tòi các nhà nghiên cứu đã dùng
phương pháp hợp giao truyền thống để
tạo ra được giống trâu mới thích hợp
với điều kiện tự nhiên cho nhu cầu
địa phương, nhưng tốc độ tạo
giống khá chậm, không thể thực hiện nhanh
hơn như việc ghép giống trâu sữa cho nhu cầu
giống tốt tại địa phương
được. Trường Đại học Canh Nông
tại Quảng Tây đã thử nghiệm và cho ra
đời 8 con nghé sữa qua ống nghiệm, sự thành
công này đưa đến những nỗ lực gia
tăng nhu cầu ghép vô tính sau những con trâu sữa
đầu tiên của Trung Quốc.
Hiện Quảng Tây là nơi có
lượng trâu lớn nhất Trung Quốc. Theo dự tính
thì Quảng Tây sẽ bỏ ra 10 năm để trâu
sữa hóa toàn bộ đàn trâu cày hiện nay, khiến giá
trị của đàn trâu mới sẽ lên tới 12 tỷ
yuan (Trung tệ), trong đó người dân sẽ thu về
được 6 tỷ yuan. Hiện nay một người
dân Trung Quốc tiêu thụ khoảng 6 kg sữa bò mỗi
năm, trong khi mức tiêu thụ trung bình của thế
giới là 100 kg. Thị trường sữa của Trung
Quốc quả thật lớn nhất thế giới do
mức dân số, và mức độ sữa cung ứng cho
nhu cầu phải gia tăng thật lẹ, sữa trâu
đang được người tiêu thụ rất thích
tại những thành phố miền Nam Trung Quốc.
Về tôn giáo, theo truyền thuyết
Phật giáo có câu chuyện kể rằng trước khi
thành Phật, Đức Thích Ca đã bỏ ra sáu năm
để hành pháp khổ hạnh đến nỗi thân
thể chỉ còn da bọc xương. Rồi về sau
ngài thấy phương pháp khổ hạnh chỉ đem
lại đau khổ mà trí tuệ chẳng hề tăng
trưởng, nên ngài quyết định dùng lại
thức ăn để có đủ sức hành thiền
quán niệm hơi thở. Trong thời gian 49 ngày thiền
định, ngài được thôn nữ Sujata dâng cúng cháo
sữa và nhờ đó sức khỏe ngài được
hồi phục nhanh chóng. Tai xứ Ấn vì bò là vật
thần linh nên chẳng mấy ai muốn dùng sữa bò. Có
thể rằng ngài được cung cấp sữa dê hay sữa
trâu. Thật vậy Ấn Độ đã dùng sữa trâu
từ ngàn xưa. Tại vùng bắc Ấn là nơi có
rất nhiều trâu sinh sống. Theo ngành dinh dưỡng
học, sữa trâu rất bổ dưỡng, rất thích
hợp với người suy dinh dưỡng vì trong
sữa trâu giàu chất béo, giàu calcium, năng lượng
cao gấp đôi sữa bò. Trong 100 mg sữa trâu có 110 kcalo,
trong khi cũng cùng 100 mg sữa bò chỉ có 66 kcalo. Ngoài ra,
sữa trâu thích hợp để chế biến thành
bơ, fromage hoặc yaourt.
Sữa trâu nhiều chất béo hơn
sữa bò nhưng thịt trâu lại ít mỡ hơn
thịt bò, nhưng lượng sắt có trong thịt trâu
lại cao hơn thịt bò. Trong thịt trâu chỉ có 1,5 - 5,6% mỡ so với thịt bò là 10 -
20%.
Trâu kéo cày
Bàn về
tục ngữ, ca dao về loài trâu phải nói là rất
nhiều bàng bạc trong dân gian. Tục
ngữ có nhiều từ ngữ hay câu liên quan về trâu, ví
dụ như: "Trâu bò
chết để da, người ta chết để
tiếng", Đầu trâu
mặt ngựa, Trâu chậm uống nước
đục, Trâu cột ghét trâu ăn, "Ngưu tầm
ngưu, mã tầm mã" (hay "Trâu tầm trâu, mã tầm
mã"), "Trâu bò được ngày phá đỗ, Con cháu
được ngày giỗ ông", "Trâu bò húc nhau,
ruồi muỗi chết", Trâu già lại gặm cỏ
non, "Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi",
"Nước giữa dòng chê trong, chê đục, vũng
trâu đầm hì hục khen ngon", Ruộng sâu, trâu nái, Con gái mười bảy bẻ gãy sừng
trâu, Mất trâu rồi mới làm chuồng,...
Về
ca dao thì có cũng rất nhiều trong dân gian chẳng hạn như:
1. Chẳng tham lắm
ruộng nhiều trâu
Tham vì ông lão tốt râu mà
hiền
2. Trâu kia kén cỏ bờ
ao,
Anh kia không vợ
đời nào có con.
3. Trên đồng cạn
dưới đồng sâu
Chồng cầy vợ
cấy con trâu đi nằm
4. Đường về
đêm tối canh thâu
Nhìn anh tôi tưởng con
trâu đang cười
5. Em như ngọn cỏ
phất phơ
Anh như con nghé nhởn
nhơ giữa đồng
6. Trâu anh con cưỡi con
dòng,
Lại thêm con nghé cực
lòng anh chăn.
7. Trâu buộc thì ghét trâu
ăn,
Quan võ thì ghét quan văn dài
quần.
8. Tháng giêng là tháng ăn
chơi,
Tháng hai trồng
đậu, trồng khoai, trồng cà
Tháng ba thì đậu đã
già
Ta đi ta hái về nhà
phơi khô
Tháng tư đi tậu trâu
bò
Để ta sắm sửa
làm mùa tháng năm...
9. Đêm qua kẻ trộm
vào nhà,
Làm thinh chợp mắt
để mà mất trâu.
10. Dù ai buôn đâu bán
đâu,
Mồng mười tháng tám
chọi trâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Mồng mười tháng tám
trở về chọi trâu.
...
Những buổi lễ trâu
là vật hy sinh:
Theo phong tục cổ truyền địa
phương, dù là của người kinh hoặc
người thượng đều có những tạp
tục liên quan đến loài trâu mà chúng ta hãy xét qua.
a/- Tập tục lễ hội chọi
trâu ở vùng biển Đồ Sơn (Hải Phòng) tại
miền Bắc được tổ chức vào ngày
mồng chín tháng Tám âm lịch hàng năm, đây là ngày
lễ hội lớn. Ca dao của câu 10 ở trên tỏ rõ
dù ai buôn bán nơi đâu thì vào mùng chín tháng tám có tục
chọi trâu hãy về tham dự.
Nguồn gốc hội chọi trâu còn
được sách Đồng Khánh Dư ghi lại qua
lời tương truyền rằng ngày xưa có
người dân trong xã đi qua Đền Hùng Trấn
Tước Điểm Thần thấy hai con trâu húc nhau,
thấy động chúng bỏ chạy xuống biển.
Sau này dân xã Đồ Sơn mở hội chọi trâu vào
ngày mùng 9 tháng 8 âm lịch như truyền thống hàng
năm và tin rằng trong ngày hội thế nào cũng có
trận mưa to gió lớn. Đó là vị thủy thần
Đồ Sơn được tin rất hiển linh.
Đền Hùng Trấn Tước Điểm Thần
thờ vị thủy thần Đồ Sơn trên Núi Tháp
thuộc huyện Nghi Dương. Một tích khác truyền
lại là dân biển Đồ Sơn do sống nhờ vào
nghề chài lưới, vì có người trong xã nằm
mơ thấy Thần Thuyền hiển linh báo mộng nên
xây dựng ngôi đền để thờ thủy
thần trên núi Tháp ngó ra biển. Vì qua giấc mộng thì
ngày hôm sau người đó lên núi nhìn thấy một
đàn chim sẻ bay lượn trên nền trời xong bay
ra hướng biển. Từ đó dân chúng tại
Đồ Sơn mới dựng đền trên núi cao.
Trong ngày lễ chọi trâu, khi trâu giao
đấu thì những thanh niên của Đồ Sơn chia
thành hai hàng trình diễn những màn múa cờ nhiều màu
sắc của lễ hội. Những động tác
nhịp nhàng múa cờ được thao diễn theo
trận chiến giữa hai con trâu võ sĩ đang hì
hụt húc nhau chí mạng trong sự reo hò của
người tham dự.
Chung qui thì ý nghĩa của lễ chọi
trâu là dịp để người dân địa
phương cầu mong được sự an bình và
thịnh vượng trong cuộc sống.
Trâu chọi Đồ
Sơn
b/- Trong khi trên vùng cao nguyên trung nam phần
có ngày lễ hội mùa đâm trâu tế thần. Phong
tục đâm trâu thịnh hành theo phong tục cổ
truyền của những dân tộc miền cao nguyên,
đặc biệt là ở 2 vùng Kon Tum hay Gia Lai. Tục
đâm trâu là sự thử thách đọ sức mạnh
của con người và thiên nhiên. Những buổi lễ này
được dân làng cử hành thường vào mùa thu
hoạch cuối năm là cơ hội để các trai và
gái làng biểu diễn tài năng của mình. Nam thì múa khiên,
múa giáo, hay phóng lao. Trong khi nữ thì múa hát (xoang) cổ
động cho buổi lễ đâm trâu. Còn người già
đảm trách nhiệm vụ cúng tế và đặc
biệt là đánh ching (tức chiêng bằng không có núm).
Con trâu tế thần (gọi là Kapô)
được cột dưới cột Gưng. Nó có
thể chạy quanh cột Gưng thành vòng tròn. Sau lời
tế lễ, vị trưởng lão làng ra lệnh bắt
đầu hành lễ, các chàng trai khoẻ mạnh như
những dũng sĩ đóng khố Ktel (khố hoa) múa
khiên, múa lao. Tiếng chiêng đuổi trâu chạy chàng
dũng sĩ liền bám theo con trâu phóng những mũi lao
ác nghiệt vào con vật hy sinh cho buổi lễ. Theo
nhịp ching chiêng nhún nhảy, các cô gái nắm tay nhau xoang
(múa) vòng quanh. Họ múa hát vui mừng cho tới khi con trâu
bị lao đâm gục ngã quỵ và lời cúng tế dâng
lên các thần linh của vị trưởng lão làng
chấm dứt rồi thì lễ được kết thúc.
Trâu là
vật có nghĩa :
Chuyện các buổi lễ trên cho thấy
số mạng trâu ra đời để phục vụ
con người, trâu cho sức khoẻ cày cấy, cho
những cuộc giao đấu chọi nhau, rồi cho
thịt, cho sữa. Chuyện sau đây cho thấy những
con trâu sống có nghĩa với con người, vì chúng
đã xả thân cứu lấy chủ của chúng.
Năm con trâu đã cứu chủ nhân
của nó thoát khỏi cái tát và sự đuổi bắt
của một con gấu. Chuyện thật này đã
xảy ra ở Trung Quốc. Bà nông gia Luo Fengju, 55 tuổi
sống tại thị trấn Thành Ninh, thuộc tỉnh
Vân Nam thuộc bị một con gấu đen tấn công
nhưng bà may mắn thoát chết và trở về nhà an toàn
nhờ những con trâu đã cứu mạng cho bà.
Một hôm đang đang làm việc trên
cánh đồng, bỗng nhiên, có một con gấu xuất
hiện nhào tới tấn công bà tới tấp, gấu
đánh bà té lăn xuống đất.
Trong cơn đau đớn bà la hét,
rồi thì năm con trâu đang ăn cỏ ở gần
đó bỗng nhiên lao tới tiếp cứu và tấn công
lại con gấu, chúng bao vây con gấu trong thế vòng tròn
đánh hội đồng. Trước sức húc của
trâu tấn công đối thủ, chú gấu đã tìm cách
thoát vòng vây bỏ chạy. Trên đường trở
về làng năm con trâu hộ tống bà Luo đi ở
giữa, chúng thật sự là những anh hùng và có nghĩa
với chủ.
Về đến nhà thoát nạn xong bà Luo
tâm sự rằng nếu như không có những con trâu thì bà
không biết tính mạng của bà liệu đã ra sao
trước con gấu hung dữ kia.
Một hình ảnh như chú Sửu
Sau hết tôi xin tóm tắt lại một
bài tạp ghi mang tên "Con trâu của chú Sửu", do
ngòi bút của Hồ Sĩ Bình kể lại, một
chuyện khá cảm động về người nông gia
suốt đời tận tụy với nghề nghiệp.
Chú Sửu là một nhà nông làm lụng
cần cù ngoài đồng áng. Cả cuộc đời
của chú gắn liền với con trâu, bởi vì chú
sống bằng nghề cày thuê. Những con trâu chú cày
bừa rất siêng năng như chủ của chúng. Do
vậy dân chúng trong làng ngoài xóm ai cũng muốn
mướn chú cày bừa cho bằng được, quanh
năm chú làm không hết việc. Công việc cày thuê tuy
vất vả nhưng nhờ vậy mà chú Sửu đã nuôi
được cả nhà với 6, 7 miệng ăn. Hãy nghe
tác giả mô tả về chú Sửu như sau:
"Cuộc
đời của chú đã thay trâu cũng năm sáu lần
rồi. Chú có thói quen chọn lựa trâu rất kỹ
lưỡng. Khi chọn trâu, chú săm soi, rờ khám
khắp châu thân của con trâu, từ mắt, miệng, tai,
háng, hông... và kể cả những đặc điểm
quan trọng để xác định là giống trâu
tốt như bộ lông phải rậm dày, nhất là có bao
nhiêu xoáy, xoáy nằm ở vị trí nào thì tốt, v.v... Nói
chung, chú có đầy kinh nghiệm mua sắm trâu, rành
đến độ chỉ cần nhìn tướng là chú
đoán biết con nào là trâu chiến, cày khỏe, siêng
năng, và tính khí như thế nào. Chú chọn trâu kỹ
đến nỗi, nhiều khi đi khắp vùng, năm
bảy ngày trời mà không chọn được phải
về không. Khi chọn được trâu vừa ý rồi
dẫn nó về nhà, thôi thì không có hạnh phúc nào vui hơn,
khuôn mặt hả hê rạng rỡ như một
người đào được vàng. Cả đêm
ngồi thắp đèn dầu, ngắm nghía, hết vỗ
mông đến xoa bụng, xoa ức, cà sát mặt vào
lưng trâu mà sung sướng, hít hà".
Một ông chủ thương trâu bằng
tình nghĩa đậm đà, khi trâu già chú phải bán đi
lấy tiền mua trâu mới, tác giả Hồ Sĩ Bình
viết tiếp:
"Rồi
khi trâu già, hết thời chú phải bán trâu cho người
ta làm thịt, chú lại buồn rời rợi, nằm
cả buổi nhìn lên trần nhà, không thiết tha ăn
uống. Vợ con biết tính cũng không dám nói năng chi.
Không buồn sao được, con trâu gắn bó với chú
trên dưới 10 năm trên đồng cạn,
dưới đồng sâu, mưa nắng, rét buốt
cắt da chỉ có người và trâu chia sẻ nhọc
nhằn, gian khổ. Những lúc ấy, có dịp nhìn vào
mắt chú thấy ngân ngấn nước mắt, giọt
nước mắt của người lực điền
quay mặt không dám nhìn người ta dắt trâu đi."
Cái tình nghĩa con người với con
vật suốt cuộc sống cực khổ lam lũ
của trâu vì kiếp của chúng được tạo hóa
cho ra đời dưới cung mạng của một vì
sao lầm than, nhưng chú Sửu là người gần
gũi với loài trâu. Chú quý sức lao động của
trâu và luôn thông cảm và yêu thương chúng bằng
những giọt nước ấm khi phải chia tay vói
những con trâu mà chú nuôi:
"Cuộc
sống nơi thôn dã dần dần được cơ
giới hóa và thay đổi cách lảm việc, máy cày ngày
càng nhiều, ít ai còn mặn mà với việc thuê trâu cày. Tiếng
kêu tắc rị kéo trâu trên ruộng đồng cũng
thưa vắng đi. Thế nhưng chú Sửu vẫn keo
sơn ràng buộc với phương tiện cày bừa
xửa xưa. Cả làng chỉ độc mình chú còn cày
trâu. Chú cứ khư khư cái nghiệp dĩ cày thuê
nặng nhọc của mình. Theo chú thì máy móc được
cái là khỏe, nhanh nhưng là cày dối, nhất là cày ở
mấy góc ruộng, máy làm sao mà khéo bằng trâu cho
được. Nhờ có tiếng là cẩn thận siêng
năng nên nói thế nên nhiều người vẫn thuê
chú. Dĩ nhiên công việc không còn được như xưa,
nhưng cũng đắp đỗi qua ngày. Công cán ở
quê, sau mùa thu hoạch người ta mới trả bằng
lúa. Nói cho đáng tội, những chủ nông cứ ỷ y
có máy cày, việc thuê mướn chú gần như vì
thương cảm, trợ giúp nên họ trả công
bằng thứ lúa hạng hai hay hạng ba pha tạp nhiều
hạt thóc lép. Biết phận mình bị hắt hủi,
chú vẫn lặng lẽ cặm cụi bên con trâu già
một nắng hai sương trên những cánh đồng
khô khốc. Chú không thể xa lìa công việc đã gắn bó
tự thuở nảo, và thuở nào..."
Rồi việc gì tới sẽ phải
tới theo qui luật đào thải của thiên nhiên.
Đầu năm nay, khi chú bước qua tuổi 70.
Mấy đứa con đã lớn, chú có cả cháu nội
và cháu ngoại. Mấy đứa bàn và dứt khoát không cho
cha đi cày thuê nữa, và sợ rằng làng xóm dị
nghị, người ta nói già rồi mà con cái không nuôi
nổi sao. Tác giả trở về quê thăm chú.
Đường vào ngõ làng tháng giêng khi trời còn mưa
lất phất, bên hiên nhà sao mà vắng vẻ. Chú Sửu
nằm thu mình không nói gì cả, người xuội hẳn
đi, trên đôi mắt buồn rưng rưng ngấn
lệ. Chú bảo mình còn khỏe, thế mà... Tác giả
muốn đề nghị để an ủi, nhưng
mọi lời nói lúc này không khỏa lấp được
gì trước sự hụt hẫng, sự đổi thay
chới với của một người đang phải
chia tay với những gì thân quí nhất trong nếp
sống đã có từ lâu. Cuộc sống ấy vẫn
thế, đôi khi chú Sửu chưa bao giờ nghĩ
tới giây phút cuối này, giây phút bất ngờ quá
nhưng biết làm sao hơn. Cuối cùng rồi thì sáng nay
con trâu đã bị mang đi bán, cái chuồng trâu đã
trống vắng. Chỉ còn lại một khoảng
trống se sắt tê buốt nơi góc sân quen thuộc, và
thoang thoảng mùi phân trâu còn vương vấn đâu đây
như là nỗi nhớ của thời gian.
Cảnh đàn trâu quê hương
Thưa quý bạn bài viết của tác
giả trên cho thấy đạo lý làm người không
phải mang ý niệm sinh sát như đâm trâu, hay chọi
trâu, một loài vật ra đời mang ý nghĩa cao quý
của nó. Bà nông gia Luo hay chú Sửu hiểu ý nghĩa thâm
thúy nhất của loài trâu đối với chủ
của chúng. Trong năm Kỷ Sửu này ta hãy hình
tượng ra những con trâu chăm chỉ làm việc bên
những cánh đồng lúa Việt Nam để chúng ta
một thời hãnh diện là miền Nam Việt Nam là
vựa lúa của vùng Đông Nam Á vào đầu thập niên
1960. Điều chắc chắn sức trâu cày cho niềm
hãnh diện này không phải là ít.
Việt Hải