Nguyễn Văn Vĩnh Và Đông-Dương Tạp-Chí Người Đầu Tiên Phát Huy Chữ Quốc Ngữ Tại Bắc Kỳ Vào Đầu Thế Kỷ 20

Âu Vĩnh Hiền

 

    Vào cuối thế kỷ 19, trong thời kỳ tiếp xúc với người tây phương, trên mảnh đất miền Nam Việt Nam, nền văn học chữ quốc ngữ đã được khai sinh, với sự tận tâm góp công xây dựng đầu tiên của hai ông Petrus Trương Vĩnh Ký và Paulus Huỳnh Tịnh Của.
    Kế tiếp đến đầu thế kỷ 20, sau 1907, nền văn học chữ quốc ngữ mới được truyền đạt ra đến miền Bắc, và phát triển mạnh mẽ, với sự mở mang tích cực của báo chí, nổi bật nhất là hai nhà ngôn luận báo chí Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh.
    Hai ông là nhà báo cũng là nhà văn, đồng thời cùng chủ trương, vừa trau dồi câu văn quốc ngữ để xây dựng một nền văn học mới, vừa dùng nó để diễn đạt những quan niệm của mình trong việc tiếp đón văn hóa tây phương. Nguyễn Văn Vĩnh nổi bật từ năm 1907 đến 1917, với quan điểm duy tân cấp tiến. Còn Phạm Quỳnh đóng vai lãnh đạo dư luận và văn đàn từ năm 1917 đến 1932, với tôn chỉ bảo thủ văn hóa quốc gia và dung hòa đông tây.
    Riêng về Nguyễn Văn Vĩnh, vào lúc giao thời giữa hai nền văn hóa Đông Tây, ông thuộc nhóm người tân học, làm việc với người Pháp, và được sang Pháp công tác, đã sớm nhận thấy sự văn minh tiến bộ tây phương. Vì thế, ông hiểu rằng muốn canh tân đất nước, việc giáo dục quần chúng là điều kiện quan trọng trước nhất.  Để giáo dục quần chúng, sự cần thiết là phải nhờ vào chữ quốc ngữ, báo chí, và ấn phẩm. Những yếu tố nầy ở nước ta lúc bấy giờ chưa có. Cho nên, vào 1907, sau chuyến công tác ở Pháp, Nguyễn Văn Vĩnh đã tiên phuông thực hiện một số việc như:
      1- Sáng lập tờ Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo, một tờ báo quốc văn đầu tiên ở miền Bắc. Ông làm chủ bút, số báo đầu tiên xuất bản vào ngày 20/3/1907, với tôn chỉ truyền bá học thuật Tây Âu, và cổ động cho chữ quốc ngữ.
      2- Sáng lập nhà in Việt Nam đầu tiên ở Hà Nội, và xuất bản cuốn “Truyện Kiều”,và“Tam Quốc Chí“của Phan Kế Bính dịch ra chữ quốc ngữ, với “Tam Quốc Chí” trong trang đề tựa Nguyễn Văn Vĩnh đã viết một câu thời danh lịch sử: “-Nước Nam ta mai sau nầy hay, dở cũng ở chữ quốc ngữ.”  
      3- Cổ động diễn thuyết tại Hà Nội vào ngày 04/8/1907, và thành lập hội dịch thuật sách phổ thông Pháp học ra chữ quốc ngữ, để truyền bá tư tưởng học thuật tây phương cho dân Việt.
      4- Để hưởng ứng phong trào duy tân phát động do nhóm Nho gia cựu học, năm 1907, ông đảm nhận việc xin giấy phép mở trường “Đông Kinh Nghĩa Thục”, rồi phụ trách dạy chữ Pháp, và diễn thuyết tại trường nầy.
     Cho nên khi ông mất vào năm 1936, với hơn hai mươi năm sự nghiệp làm báo, và phát huy tân học chữ quốc ngữ, giới báo chí miền Bắc  đã phong tặng ông danh hiệu “Thủy Tổ Nhà Báo Bắc Kỳ”. Hơn nửa, qua những việc làm của ông, giới thức giả còn xem ông là nhà báo tiền phong đã đặt những viên đá đầu tiên, cho nền tảng giáo dục tân học chữ quốc ngữ tại miền Bắc.
    Sau đây là trích đoạn của bài “ Tiếng Annam “ trên Đông-Dương Tạp Chí số 40, Nguyễn Văn Vĩnh đã cổ động kêu gọi, mọi người nên góp công xây dựng một nền tảng quốc văn học thuật mới, với căn bản chữ quốc ngữ được phổ thông trong tương lai :
      “... –Nay muốn cho văn tự nước Nam có kinh điển thì bao nhiêu những bậc tài hoa, những người có học thức trong nước  phải chuyên về nghề văn quốc ngữ.  Các bậc danh nho thì nên bỏ quách cái tài ngâm hộ cho người đi (ý nói ngâm nga thi phú Tàu), chỉ học cho biết để mà nhân cái hay của người làm cái hay của mình mà thôi.  Các bậc có Pháp học thì tuy rằng cái ngoại tài ấy phải chuyên làm cách tranh cạnh, làm mồi kiếm ăn, nhưng nếu muốn nhân việc lập thân mà lại có ích cho đồng bào mình thì phàm luyện được chúc tài nào của người thì cũng nên dùng quốc văn mà phát đạt nó ra cho cả người đồng bang được hưởng.
     “ Nào báo quốc ngữ, nào sách học quốc ngữ, nào thơ quốc ngữ, văn chương quốc ngữ, án ký hành trình, tiểu thuyết nghị luận, tờ bồi việc quan, đơn từ kiện tụng, nên làm toàn bằng văn chữ quốc ngữ hết cả.  Cả đến những cách cao hứng vịnh đề, tình hay cảnh đẹp, câu đối dán nhà, tứ bình treo vách, câu phúng bà con, lời mừng bạn hữu, đều nên dùng quốc văn hết thảy, mà cốt nhất là phải tập lấy lối văn xuôi, diễn dịch như in lời nói cho rõ ràng, cho nhất định, phải khiến cho lời văn chương theo lời mẹ ru con, vú ấp trẻ, lời anh nói với em, vợ nói với chồng chớ đừng để cho văn chương thành ra một cách nói lối, mà tiếng nói vẫn cho là nôm na.  Văn chương phải như ảnh tiếng nói và tiếng nói phải nhờ văn chương hay mà rõ thêm, đủ thêm ra.
    “ Lại còn một điều khẩn yếu nửa ra muốn cho văn quốc ngữ thành văn chương hay khỏi thành một tiếng nôm na mách qué, thì cách đặt câu, cách viết, cách chấm câu phải dần dần cho có lệ có phép, mà lệ phép thì phải theo ý nhiều người đã thuận, chớ đừng ai tự đắc lối của mình đem ý riêng ra sửa đổi thói quen” (Tiếng Annam,Đ.D.T.C.,số 40, tác giả Nguyễn Văn Vĩnh).


I- QUÁ  TRÌNH  HOẠT  ĐỘNG :
      Nguyễn Văn Vĩnh có biệt hiệu là Tân Nam Tử, sinh ngày 15/6/1882,tại làng Phượng Vũ, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Năm 1898, ở tuổi 16, ông tốt nghiệp trường thông ngôn Hà Nội (Collège des Interprêtes), và được bổ nhiệm làm thư ký tòa sứ Lào Kay. Sau đó, ông được thuyên chuyển qua Hải Phòng, Bắc Ninh, và Hà Nội. Năm 1906, ông được cử sang Pháp tham dự hội chợ đấu xảo (Foir d'exposition), tại Marseille.  Sau khi trở về nước, ông từ chức thư ký tòa sứ, để làm nghề văn, làm báo, và hoạt động chính trị.
      Khởi đầu, vào 20/3/1907, làm chủ bút tờ Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo.
1908 - 1909 : ông chủ trương tờ Notre Journal. Năm 1910, ông ra tờ Notre Revue được 12 số báo. Cùng năm 1910, ông làm chủ bút tờ Lục Tỉnh Tân Văn ở Sàigòn. Năm 1913, ông trở về Hà Nội, làm chủ bút tờ Đông Dương Tạp Chí. Đến năm 1915, kiêm chủ bút tờ Trung Bắc Tân Văn. Cả ba tờ báo Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Dương Tạp Chí, và Trung Bắc Tân Văn đều do ông Schneider, người Pháp sáng lập.
      Năm 1919, Đông Dương Tạp Chí đổi làm học báo, ông kiêm chức chủ nhiệm. Đồng thời, ông mua lại tờ Trung Bắc Tân Văn ra mắt hàng ngày.
      Năm 1927, ông cùng người Pháp Vayrac thành lập tủ sách Âu Tây Tư Tưởng (La pensée de l'Occident) để xuất bản các sách do ông dịch thuật.
1931- 1934 :  ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Annam Nouveau.
      Ngoài ra, ông còn là hội viên hăng say hoạt động cho hai học hội Trí Tri, và Khai Trí Tiến Đức.
      Về hoạt động chính trị, từ 1908, ông là hội viên Hội Đồng Thành Phố Hà Nội. Từ 1913, trong nhiều khóa liên tiếp, ông được tín nhiệm làm hội viên Hội Đồng Tư Vấn Bắc Kỳ (tức Viện Dân Biểu thời đó); và có chân trong Đại Hội Nghị Kinh Tài Đông Dương, một cơ quan tư vấn tối cao của chính phủ Đông Pháp.  Ngoài ra, ông còn là hội viên của hai Hội Nhân Quyền Quốc Tế tại Việt Nam (Ligne des droits de l'homme), và Hội Tam Điểm Quốc Tế (Franc Maconnerie).
       Vào năm 1934 - 1935, lúc kinh tế suy thoái, và tài chánh ấn quán bị thua lỗ, ông chuyển hướng, và hợp tác với một người Pháp Clémenti sang Lào để khai thác mỏ vàng; vì hành trình gian khổ, ông lâm bệnh và mất vào ngày 02/5/1936, gần Tchépone, Lào.

II- SỰ  NGHIỆP  VĂN  HỌC :
     Ông có thiện chí muốn xây dựng một nền quốc văn vững chắc cho dân Việt. Cho nên, ông đã nỗ lực đặt hết tâm trí vào công việc biên khảo, trước tác, ký sự, và dịch thuật.  
1- Về Phần Trước Tác, Biên Khảo, và Ký Sự :
Ông đã viết những bài luận thuyết và ký sự đăng trên báo chí, có
tính chất giáo dục và chính trị, với ước vọng cải thiện lối sống, và tập quán hủ lậu của dân Việt, để xây dựng một xã hội công bằng cho dân chúng. Các bài luận thuyết của ông trên báo Đông Dương Tạp Chí như sau:
-Xét Tật Mình (Số 6 ĐDTC).-Phận Làm Dân (Số 48, ĐDTC).- Chỉnh Đốn Lại Cách Cai Trị Dân Xã (Số 61, ĐDTC). -Nhời Đàn Bà (Số 5, ĐDTC).
-Hương Sơn Hành Trình (Số 41- 45, ĐDTC).
2- Về Phần Dịch Thuật :
    Những tác phẩm chữ Việt được dịch ra Pháp văn như : -Kim-Vân-Kiều Tân Diễn (Số 18, ĐDTC). -Xích Bích và Hậu Xích Bích (bộ mới số 66- 68, ĐDTC).
    Những tác phẩm chữ Pháp được dịch ra Việt Văn như :
   -a) Văn Luận Thuyết : -Luận Lý Học (từ số 15, ĐDTC), -Triết Học Yếu Lược (từ số 28, ĐDTC).
   -b) Văn Ngụ Ngôn : -Thơ Ngụ Ngôn của La Fontaine (1915).
   -c) Văn Truyện Ký : -Truyện Trẻ Con (Contes de Perrault), -Chuyện Các    Bậc Danh Nhân Hy Lạp của Plutarque (Les vies parallèles des hommes illustres de la Grèce et de Rome), -Sử Ký Thanh Hoa của Vayrac (Le parfum des humanités).
  -d) Tiểu Thuyết : -Truyện Gil-Blas de Santillane của Lesage, -Tục Ca Lệ của Lesage, -Truyện Mai Nương Lệ Cốt của Abbé Prévost (Manon Lescaut), -Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ của Alexandre Dumas (Les Troix Mousquetaires), -Những kẻ khốn nạn của Victor Hugo (Les miscrables), -Truyện Miếng Da Lừa của Honoré de Balzac (La peau de chagrin), -Đàn Cừu Của Chàng Panurge của Emile Vayrac, -Rabelais của Emile Vayrac (Notice sur Rabelais),-Tê-Lê-Mác Phiêu Lưu Ký của Fénélon (Les aventures de Télémaque), -Qui-li-ve Du Ký của J. Swift (Les voyages de Gulliver).
  -e) Hài Kịch : tác giả Molière:-Trưởng Giả Học Làm Sang (Le Bourgeois Gentilhomme), -Người Biển Lận (L'avare), -Giả Đạo Đức (Tartuffe), -Bệnh Tưởng (Le Malade Imaginaire).
   Theo Giáo sư Dương Quảng Hàm, trong “Việt Nam Văn Học Sử Yếu” có nhận xét về Nguyễn Văn Vĩnh như sau :
   “ A-Về Tư-Tưởng : Ông là người học rộng, biết nhiều, lại có lịch duyệt, thiệp-liệp tư-tưởng học thuật của Âu-tây, nhưng cũng am hiểu tín-ngưỡng phong tục của dân ta, muốn đem những quan-niệm phương-pháp mới nào hợp thời để truyền-bá trong dân-chúng, nhưng cũng chịu khó tìm-tòi và biểu-lộ cái dở, cái xấu cũng như cái hay, cái ý nghĩa của các chế độ, tục lệ xưa của các mối mê tín, dị-đoan cũ; vì thế, có người hiểu lầm mà trách ông muốn đem những điều tin nhảm, những cái hủ-tục mà tán-dương và khôi phục lại (như trong việc in cuốn Niên-lịch thông-thư trong có biên chép ngày tốt ngày xấu và kê-cứu các thuật bói toán, lý số).
    “ B-Về Văn-Từ : Văn ông bình thường giản-dị, có tính cách phổ-thông, tuy có châm-chước theo cú-pháp của văn tây mà vẫn giữ được đặc tính của văn ta. Ông lại chịu khó moi móc ra trong kho thành-ngữ, tục ngữ của ta những từ-ngữ có màu-mè để diễn-đạt các ý-tưởng (cả những ý tưởng mới của Âu-tây) thành ra đọc văn dịch của ông tưởng chừng như đọc văn nguyên-tác bằng tiếng Nam vậy. Kể về văn dịch tiểu-thuyết thì thực ông là người có biệt tài, ít kẻ sánh kịp vậy.”
     Trong sách “Văn Học Sử Thời Kháng Pháp 1858 - 1945”, Tác giả Lê Văn Siêu  đã nhận định Nguyễn Văn Vĩnh như sau :
    “-Ông là người có công lớn và đầu tiên trong việc xây dựng nền văn chương Việt-nam bằng chữ quốc ngữ. Với thái độ sống và thế đứng trong xã hội, ông thu hút được người đồng thế hệ cùng đem văn tài ra cộng tác với ông trong việc xây dựng nầy. Từ người nhỏ tuổi nhất như Phạm Quỳnh 21 tuổi, Tản Đà 25, đến người nhiều tuổi như Phan Kế Bính 38, Nguyễn Hữu Tiến 39, và người ngang tuổi như Trần Trọng Kim 31, tất cả đều thấy cái thú chơi chữ và thí nghiệm về văn chương, để dần dần vững tâm dám nghĩ đến những công trình biên khảo hay sáng tác lớn.
    Trong khi ông sửa soạn người cho bước tiến tương lai như Phạm Quỳnh, Tản Đà, thì bằng các thể văn, các bài viết, ông cũng tạo ra những mẫu mực văn chương cho đời sau học theo, cùng nương theo đấy mà tiến hơn nữa “.

III- ĐÔNG - DƯƠNG  TẠP - CHÍ (1913 - 1916) :
     Vào đầu thế kỷ 20, để thỏa mãn nhu cầu chính trị của thực dân Pháp; tờ Đông Dương tạp chí do Schneider sáng lập, tại Hà Nội, với một số văn sĩ, ký giả Việt Nam dưới quyền quản lý chủ bút của Nguyễn Văn Vĩnh.  Đông - Dương tạp chí là tờ tuần báo xuất bản vào ngày thứ năm. Số đầu tiên ra ngày 15 - 05 - 1913, xuất bản được bốn năm, đình bản vào 1916.
     Ban biên tập gồm có: -Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh (1882 - 1936), -Thượng Chi Phạm Quỳnh (1892 - 1945), -Bưu Văn Phan Kế Bính (1875 - 1921), -Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889 - 1939), -Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, -Nguyễn Bá Trác, -Thân Trọng Huề (1869 - 1925), -Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, -Nguyễn Đỗ Mục, -Lệ Thần Trần Trọng Kim (1882 - 1953), -Phạm Duy Tốn (1883 - 1924).



    Mục Đích của Đông Dương tạp chí như sau :
    1-Chính Trị : Tuyên truyền chính sách cai trị của người Pháp, vì lợi ích cho đời sống người dân và đất nước Việt Nam; và khuyến dụ người dân Việt hợp tác với chính quyền Pháp, không theo nhóm bạo động chống Pháp.
    2-Văn Tự : Tích cực phổ biến cổ động cho chữ quốc ngữ, để mọi giới người Việt nhận thức được sự tiện lợi, và dễ học của một thứ chữ mới. Luyện tập theo lối văn xuôi, gãy gọn, có tính cách bình dị, để xây dựng một nền quốc văn mới, giúp cho việc diễn đạt tư tưởng trong lối phê bình văn học và nghị luận.  
    3-Học Thuật Tư Tưởng Tây Phương : Truyền bá giáo dục bách khoa phổ thông về học thuật, tư tưởng, và văn minh tây phương cho mọi người Việt, mà người học không cần phải đi đến trường  (bằng cách dịch thuật từ các sách Pháp và Hán văn ra chữ Việt, đồng thời giảng giải về đủ mọi vấn đề trong đời sống xã hội).
    Theo Giáo Sư Trịnh Vân Thanh, tác giả Danh Nhân Từ Điển, 1966 đã nhận định Đông Dương Tạp Chí như sau :
    “-Ta có thể nói Đông Dương Tạp Chí là một tờ báo xuất bản trước nhất chuyên về việc dịch thuật Hán-văn và Pháp-văn, nhằm mục đích nâng cao dân trí.  Bộ môn tiểu thuyết thời bấy giờ được nhiều người ưa chuộng hơn những vấn đề có tính cách triết lý, khoa học.  Ngoài phần dịch thuật, nhóm Đông Dương với những cây bút giá trị của các học giả đã sáng tác nhiều loạt bài khơi động niềm rung cảm trong quảng đại quần chúng với lối văn bình dị.  Nội dung của những bài luận thuyết và ký sự nhằm vào việc giáo dục giới thanh niên nam nữ trên đường tiến hóa, xây dựng một tương lai rực rỡ sau nầy, mà chúng ta có dịp thưởng thức những tài nghệ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn “.
     Ngoài ra, phê bình về nhóm Đông Dương Tạp Chí, Tác Giả Vũ Ngọc Phan trong sách “ Nhà Văn Hiện Đại “ Tập I đã viết như sau :
     “ -Người Tây học có thể lấy trong đó, (ĐDTC) những tinh-hoa của nền cổ-học Trung-Hoa mà nước ta đã chịu ảnh-hưởng lâu đời; người Hán học cũng có thể lấy trong đó những tư tưởng mà người Việt ta cần phải biết rõ mà thâu thái.  Những bài bình luận, những bài tham-khảo về Đông-phương và về Tây-phương đăng liên tiếp trong Đông-Dương Tạp-Chí, ngày nay giở đến, người ta vẫn còn thấy là những bài có thể dựng thành một bộ sách biên tập rất vững vàng và có thể giúp ích cho nền văn học Việt-Nam hiện đại và tương-lai “./.

Âu Vĩnh Hiền